Đồ sứ hoa lam Nhật Bản tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Nguyễn Đình Chiến
Đồ sứ hoa lam là nhóm hiện vật có số lượng lớn với nhiều loại hình đồ gia dụng như: Lọ, nậm, bát, đĩa và chén. Những đồ sứ hoa lam này là những loại hình khá tiêu biểu của dòng gốm Arita, đặc biệt là khu vực lò gốm Ko Imari.
1. Nậm sứ hoa lam:
+ Kiểu 1: Nậm có gờ miệng loe, cổ cao, thân hình trứng chân đế thấp, đáy lõm. Quanh cổ và vai vẽ băng cánh hoa cúc và băng tam giác, thân vẽ cây lá và hình chim bay. Cao 45,3 cm, đkm 8,5 cm. Chiêc nậm này do Peri mua năm 1921. Đây là chiếc nậm thuộc đời Giang Hộ 1660-1705.
Nậm sứ hoa lam 1660 - 1705
+ Kiểu 2: Nậm hình củ tỏi miệng vút. Phần miệng bịt kim loại. Cổ và vai vẽ băng cánh hoa cúc và hình tam giác. Xung quanh thân vẽ dây hoa lá theo kiểu chuỗi tràng hoa. Nậm cao 26,8 cm, đướng kính miệng 1,5 cm. Chiếc nậm này thuộc đời Giang Hộ khoảng nửa đầu tk 18.
Nậm sứ hoa lam, nửa đầu thế kỷ 18
+ Kiểu 3: Nậm hình củ tỏi, miệng hơi loe, cổ cao, thân phình, đế thấp, đáy lõm. Xung quanh cổ dọc theo chiều cao chia thành 4 ô trang trí hàng văn nhũ đinh. Xung quanh thân vẽ hoa lá cúc, phong cách tương tự kiểu hoa lá đời Khang Hy của Trung Quốc. Cao 15,5 cm, đkm 2,7 cm. Chiếc nậm này thuộc đời Giang Hộ khoảng năm 1630. Theo lý lịch hiện vật chiếc nậm này do ông Dalet gửi bảo tàng năm 1938.
2. Lọ sứ hoa lam gồm 5 kiểu:
+ Kiểu 1: Lọ có nắp, miệng tròn, cổ đứng hình trụ, vai phình, thân thuôn, đế thấp, đáy lõm, nắp hình chỏm cầu. Nắp và xung quanh thân vẽ hoa lá. Cao 7,1 cm, đkm 5cm. Đây là lọ sứ hoa lam thuộc đời Giang Hộ, khoảng tk 17. Theo lý lịch hiện vật chiếc lọ này do ông Dalet gửi bảo tàng năm 1938.
+ Kiểu 2: Lọ có miệng tròn cổ đứng hình trụ, trên nhỏ dưới to, vai phình, thân thuôn, đáy thót. Xung quanh cổ vẽ băng chữ V lồng nhau. Xung quanh thân vẽ dây hoa lá. Cao 7,2 cm, đkm 3,2 cm. Chiếc lọ này thuộc đời Giang Hộ nửa sau tk 17.
Lọ sứ hoa lam, nửa sau TK 17
+ Kiểu 3: Lọ có miệng loe, cổ cao, thân hình cầu, đế thấp, đáy lõm. Xung quanh cổ vẽ băng tam giác lồng nhau. Xung quanh thân vẽ hoa lá. Lọ cao 7,6 cm. Chiếc lọ này thuộc đời Giang Hộ khoảng giữa tk 17. Chiếc lọ này do ông Dalet gửi bảo tàng năm 1938.
+ Kiểu 4: Lọ có miệng tròn, cổ cao hình trụ, vai phình, thân thuôn, đáy lõm. Xung quanh cổ vẽ dải lá, vai vẽ băng lá đề. Xung quanh thân vẽ cành hoa lá mẫu đơn. Cao 8,6 cm , đkm 2,2 cm. Đây là chiếc lọ thuộc đời Giang Hộ, tk 17. Chiếc lọ này do ông Dalet gửi bảo tàng năm 1938.
+ Kiểu 5: Các lọ thuộc kiểu 5 đều có miệng loe, cổ eo, thân hình cầu, đế thấp, đáy lõm. Xung quanh cổ và vai đều có băng tam giác và xung quanh thân đều vẽ cành hoa lá mẫu đơn. Kích thước của các lọ này đều thuộc loại nhỏ, với chiều cao7,3 cm-8,4 cm. Các lọ sứ hoa lam này đều thuộc đời Giang Hộ, khoảng giữa tk 17. Theo lý lịch hiện vật các lọ sứ hoa lam này do ông Dalet gửi bảo tàng năm 1938 và bảo tàng Phnom Penh gửi năm 1934.
3. Bát sứ hoa lam.
+ Kiểu 1: Bát có miệng khum, thành cong, chân đế nhỏ. Thành ngoài vẽ băng dây hoa lá trên nền trắng. Đáy viết 6 chữ Hán: Đại Minh Thành Hóa niên chế.Bát có chiều cao: 7cm , đkm: 23cm. Đây là loại bát đời Giang Hộ khoảng 1650-1680. Chiếc bát do Hải quan giao cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam năm 1990.
Bát sứ hoa lam, 1650-1680
+ Kiểu 2: Bát miệng loe, thành cong, đế rộng. Thành ngoài vẽ băng hồi văn hình học và băng dây hoa lá. Trong lòng vẽ phong cảnh cây hoa lá, kiến trúc mây trời (Khác hẳn lối vẽ Trung Quốc). Bát cao 10,2 cm, đkm 22,4 cm. Đây là chiếc bát đời Giang Hộ 1670-1710.
+ Kiểu 3: Bát có miệng loe, thành cong, đế rộng. Xung quanh thành ngoài vẽ đề tài mã - liễu (Ngựa và cây liễu). Giữa lòng bát vẽ một hình ngựa nằm, đầu ngựa ngoảnh lại, giữa phong cảnh núi non bao quanh hai đường chỉ tròn. Dưới đáy bát viết chữ nhật. Bát cao 9,4 cm, đkm 19,7 cm. Chiếc bát này thuộc đời Giang Hộ khoảng 1660-1690. Theo lý lịch hiện vật chiếc bát này do bảo tàng Louis Finot mua của Nguyễn Thị Hai ở Bình Đà, Thanh Oai, Hà Nội năm 1930.
+ Kiểu 4: Bát có miệng loe, thành cong, chân đế cao. Xung quanh thành ngoài vẽ các hình viên long (rồng trong hình tròn) xem kẽ các hình chiếc quạt. Giữa lòng vẽ hình chiếc quạt bao quanh là hai đường chỉ tròn. Bát cao 8 cm, đkm 16 cm. Chiếc bát này thuộc đời Giang Hộ khoảng nửa sau tk 17.
+ Kiểu 5: Bát có miệng loe, thành cong, đế thấp và rộng. Xung quanh thành ngoài vẽ băng dây hoa lá và băng chữ thọ xem kẽ các ô hình bầu dục. Trong ô vẽ hai vị tiên. Giữa lòng vẽ hình tiên cưỡi hạc và sóng nước trong ô hai đường chỉ tròn. Xung quanh gờ miệng vẽ các bông mai xem kẽ dải lá. Dưới đáy viết 6 chữ Hán: Nhật Bản Khoan Vĩnh sơ tác. (Chế tác vào đầu niên hiệu Khoan Vĩnh của nước Nhật Bản, năm 1750). Bát cao 9,5 cm, đkm 22 cm.
Bát sứ hoa lam, 1750
+ Kiểu 6: Bát có miệng tròn thân chia múi nổi theo 12 cạnh uốn cong, chân đế thấp. Cả trong và ngoài bát vẽ các đề tài hoa lá, nhân vật, phong cảnh sơn thủy, nền gấm chữ vạn trong các ô chéo. Bát cao 9,5 cm, đkm 19,7 cm. Chiếc bát này thuộc cuối đời Giang Hộ khoảng đầu tk 19. Theo tài liệu lưu trữ chiếc bát này do Sở văn hóa Hà Nội thu giữ của Vũ Văn Thịnh và giao cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam năm 1975.
4. Đĩa sứ hoa lam.
Kiểu 1a: Đĩa có miệng loe, thành cong gãy, đế thấp, đáy lõm. Thành trong bổ ô hình cánh sen đàu vuông bên trong vẽ cành hoa lá cúc, hình bát bảo, bốn vạch ngang. Trong lòng bổ ô hình ngôi sao 8 cánh vẽ cành hoa lá cúc, hồi văn chữ S. Thành ngoài vẽ dây hoa lá. Dưới đáy viết chữ Chính. Đĩa cao 4 cm, đkm 21 cm. Đây là chiếc đĩa thuộc đời Giang Hộ khoảng 1660-1690.
Đĩa sứ hoa lam, 1660 - 1690
Kiểu 1b: Đĩa có kiểu dáng tương tự kiểu 1a thành trong bổ ô hình cánh hoa sen đầu vuông bên trong vẽ cành hoa lá cúc, hình bát bảo và quẻ càn giữa 2 chữ vạn. Giữa lòng bổ ô hình ngôi sao 8 cánh, bên trong vẽ khóm hóa lá cúc xem kẽ chữ vạn. Đĩa cao 3 cm, đkm 21 cm. Dưới đáy có một chữ Hán theo lối Triện. Chiếc đĩa này thuộc đời Giang Hộ khoảng nửa sau tk 18. Theo lý lịch chiếc đĩa được sưu tầm ở tỉnh Hà Tĩnh.
Đĩa sứ hoa lam, nửa sau TK 18
Kiểu 1c: Đĩa có kiểu dáng tương tự như kiểu 1a. Thành trong bổ ô hình cánh sen đầu vuông, bên trong vẽ hoa lá, hình cái đỉnh. Giữa lòng vẽ chậu hoa . Đĩa cao 4,5 cm, đkm 28 cm. Chiếc đĩa này thuộc đời Giang Hộ khoảng 1680-1700.
Kiểu 2: Đĩa có miệng khum, gờ miệng uốn lượn, thành cong gãy, chân đế thấp, đáy lõm. Thành trong bổ ô hình cánh sen đầu vuông xen kẽ hình chữ nhật bên trong vẽ cành hoa lá và dải ba hình nhũ đinh. Giữa lòng vẽ đề tài sen vịt. Cao 4,2 cm, đkm 21 cm. Chiếc đĩa này thuộc đời Giang Hộ khoảng 1680-1700.
Kiểu 3: Đĩa này đều thuộc đời Minh Trị khoảng 1868-1912 và đều được thu trong thời kỳ CCRĐ 1955-1956.
Đĩa sứ hoa lam, 1868 - 1912
• Kiểu 3a: Đĩa có miệng tròn, thành vát, chân đế thấp và rộng. Trang trí trong lòng thường bổ ô vẽ phong cảnh sơn thủy, cây lá, chim thú. Đĩa cao 3,8 cm, đkm 34,5 cm.
• Kiểu 3b: Kiểu dáng như kiểu 3a. Trong lòng bổ ô làm 3 khoảng thể hiện đề tài tam hữu tùng-trúc-mai. Cao 6,5 cm, đkm 54 cm.
Kiểu 4: Đĩa có kiểu dáng giống nhau: Miệng loe, thành vát, đế thấp và rộng. Các đĩa này đều thuộc đời Minh Trị khoảng 1868-1912.
• Kiểu 4a: Trong lòng vẽ phong cảnh, cây tùng và ba con hạc bay với ngọn núi Phú Sỹ. Xung quanh viền miệng vẽ băng bông hoa trong ô lục giác. Đĩa cao 5,7 cm, đkm 45,5 cm. Theo lý lịch chiếc đĩa này thu trong CCRĐ 1955-1956.
• Kiểu 4b: Trong lòng đĩa có trang trí tương tự như chiếc đĩa trên. Điểm khác biệt là ba hình chim hạc được bố cục theo hàng dọc. Viền miệng đĩa có gờ cắt khấc tô men màu nâu. Cao 4 cm, đkm 30,5 cm. Theo hồ sơ lưu trữ chiếc đĩa này do Hải quan Nội Bài thu giữ và bàn giao cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam năm 1993.
• Kiểu 4c: Trong lòng đĩa bổ ô vẽ hoa lá mẫu đơn, phong cảnh sơn thủy, cá và cây cỏ. Cao 6 cm, đkm 45,8 cm. Theo hồ sơ lưu trữ chiếc đĩa này do Sở văn hóa Hà Nội thu của Vũ Văn Thịnh và giao cho bảo tàng năm 1975.
Kiểu 5: Đĩa đều có miệng loe, thành cong, đế thấp, đáy lõm.
• Kiểu 5a: Gờ miệng cắt khấc. Trong lòng vẽ phong cảnh hồ nước, hai con uyên ương trong tư thế hoạt động khác nhau, sóng nước và ba cây cỏ uốn cong. Đĩa cao 4,5 cm, đkm 29,7 cm. Chiếc đĩa này thuộc đời Giang Hộ, đầu tk 19. Theo hồ sơ lưu trữ chiếc đĩa này thu trong CCRĐ 1955-1956.
• Kiểu 5b: Trong lòng đĩa vẽ cây hoa lá mẫu đơn. Đĩa cao 6,2 cm, đkm 35 cm. Chiếc đĩa này cuối đời Giang Hộ, cuối tk 18 đầu tk 19. Theo hồ sơ lưu trữ chiếc đĩa này mua của Nguyễn Văn Yên ở Vĩnh Phúc, Hà Đông năm 1918.
• Kiểu 5c: Trong lòng đĩa vẽ chim đậu trên cành hoa hồng. Gờ miệng đĩa cắt khấc tô men nâu. Cao 5 cm, đkm 35,7 cm. Chiếc đĩa này thuộc đời Minh Trị 1868-1912. Theo hồ sơ lưu trữ chiếc đĩa thu được trong CCRĐ 1955-1956.
5. Chén sứ hoa lam: Có hai kiểu đều do Hải quan Nội Bài thu giữ và giao cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, năm 1993.
Kiểu 1: Chén có gờ miệng cắt khấc, thành cong, chân đế thấp, thành ngoài bổ ô vẽ các dải xoắn ốc và các đường dích dắc dọc theo chiều cao. Giữa lòng vẽ bông hoa 6 cánh trong hai đường chỉ tròn. Gờ trong viền miệng có đường chỉ đậm men lam. Chén cao 5,6 cm, đkm 7,9 cm. Chiếc chén này thuộc cuối đời Giang Hộ, khoảng giữa tk 19. 
Kiểu 2: Chén có miệng tròn, thành vát, chân đế cao. Xung quanh thành ngoài bổ ô hình chữ nhật, bên trong vẽ cành hoa lá xen kẽ ô chữ nhật vẽ hàng ba nhũ đinh tương tự như đĩa sứ hoa lam. Giữa lòng chén vẽ hình khóm cỏ. Viền trong gờ miệng vẽ đường chỉ đậm men lam. Chén cao 6,4 cm, đkm 8,2 cm. Chiếc chén sứ hoa lam này thuộc đời Giang Hộ khoảng 1680-1700.
Chén sứ hoa lam, TK 17 - 19
Như vậy nhóm đồ sứ hoa lam hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia này đã phản ánh những loại hình khá tiêu biểu của dòng đồ sứ hoa lam Nhật bản trong khoảng thế kỷ 17 – 20.