THANH KIẾM CỦA VUA GIA LONG (Tiếp theo)
Tại Paris năm 1913, “các nhà cách mạng Việt Nam”
Trong khi chờ đợi câu trả lời của Bảo tàng Invalides, lúc nào cũng đang sửa chữa, tôi tấn công vào loạt câu hỏi thứ hai, liên quan đến một thời kỳ khác và những địa điểm khác: Paris, 1913.
Tôi khó có thể định hướng việc điều tra của mình, tôi không biết làm sao mà tiến lên nếu tôi không thể có được nội dung của bức thư mà ông André Salles đã gởi cho tướng Niox: “Các nhà cách mạng Việt Nam”, không gì mù mờ hơn. Trên thực tế vấn đề được chia ra thành hai:
Ai là người ông André Salles buộc tội và tại sao?
Những người bị buộc tội này, cứ cho rằng tôi xác định được họ, có thể là những người có tội không?
Tóm lại, làm sao có thể tạo ra được một sự tin chắc dựa trên những dấu hiệu nghèo nàn đến thế và lý do nào mà người ta lại cho rằng đây có nhiều khả năng là một vụ trộm có tính chất yêu nước hơn là một vụ trộm tầm thường của một tên vô lại tại Paris?
Các “nhà yêu nước người Việt Nam” tại Paris vào những năm trước chiến tranh 14 - 18 có nhiều lắm, và cũng không ít các sinh viên, những người không ai biết nhân dạng, những sinh viên vô danh không hề để lại chút dấu vết gì trong lịch sử. Bất cứ ai trong bọn họ cũng có thể là người mà ta đang nói tới và ta không bao giờ xác định được danh tính của y.
Về luận điểm “các nhà yêu nước”, có thể là có một dấu vết: một ghi chú đặc biệt trong bài báo về một đám đông người nước ngoài bất thường đã đến tham quan bảo tàng. Các kẻ trộm, nếu là người Việt, sẽ bị nhận dạng dễ dàng giữa một đám đông người Pháp. Họ có thể đã trà trộn vào một đoàn người nước ngoài, một hội sinh viên đi tham quan chẳng hạn, để không bị nhìn thấy, họ đã có ý đồ chọn ngày này?
Không thể nào biết được…
Và mặt khác làm thế nào mà những người Việt Nam này lại biết được sự hiện diện của thanh kiếm tại Bảo tàng Invalides? Chỉ có các sinh viên là có khả năng đến thăm Bảo tàng Invalides, một bảo tàng rất được người tỉnh lẻ và người nước ngoài ưa chuộng lý do là có ngôi mộ của vua[1]. Ngẫu nhiên một người trong bọn họ, khi đi thăm các phòng trưng bày dành cho các thuộc địa, đã phát hiện ra thanh kiếm trong một tủ kính và sắp xếp với các bạn có cùng chí hướng để canh chừng và đánh lạc hướng người bảo vệ…
Tôi đã đọc lại tiểu sử các “con rồng” tại Paris, tôi cũng đọc một vài nghiên cứu về các sinh viên Việt Nam tại Paris vào thời gian đó, tôi không hề tìm được một dấu vết nào của thanh kiếm, không hề có một vết tích nào, không hề có gì để nghi ngờ.
Nhưng có một ngày, tại đường Ông Hoàng (rue Monsieur le Prince), ở một tiệm sách… sự may mắn đến giúp tôi… Tôi tìm được một cuốn sách nhỏ mà người ta vừa mới tái bản Một âm mưu của người Việt tại Paris của Phan Văn Trường. Tựa đề cuốn sách quá hay và cả thời điểm được ghi trên trang 4 của bìa sách cũng phù hợp: sự việc xảy ra vào 1912 - 13.
Tôi đến ngồi tại quán rượu đầu tiên, gần (vườn) Luxembourg, kêu một ly cà phê và bắt đầu đọc. Và bất thình lình, cuốn sách suýt tuột khỏi tay tôi. Tác giả khẳng định mình là đối tượng của một âm mưu sắp đặt chống lại mình do… André Salles tạo ra!
Phan Văn Trường, thầy dạy kèm tiếng Việt
Sau đây là tóm tắt nội dung của cuốn sách đã được đăng từng kỳ trong nhật báo Cái Chuông Rè (La cloche fêlée) của Nguyễn An Ninh, trước khi được xuất bản thành sách tại Sài Gòn.
Vào thời điểm ta đang nói đến, Phan Văn Trường đang ở Paris nơi ông được Toàn quyền Đông dương gởi tới để làm thầy dạy tiếng Việt ở trường Ngôn ngữ Đông phương (l’école des langues orientales). Ông bắt đầu dạy vào năm 1908 và đồng thời đăng ký học tại khoa luật. Về phần mình, André Salles đã về hưu. Ông này đã chấm dứt công việc làm thanh tra ở các xứ thuộc địa, sau khi đã làm quản lý trong hải quân và về hưu rồi thì thích biên tập các tác phẩm lịch sử viết về sự hiện diện của người Pháp tại Đông dương cũng như tổ chức nhiều hội ái hữu Pháp - Việt khác nhau.
Hai người chạm trán nhau về vấn đề tổ chức cho các sinh viên Việt Nam tại Pháp. André Salles là Chủ tịch Ủy ban Paul Bert, thuộc tổ chức Liên Minh Pháp, có chủ đích là coi sóc thời gian lưu trú của các sinh viên Đông Dương được gởi sang Pháp. Coi sóc và theo dõi, chắc là vậy. Trong câu chuyện của mình, Phan Văn Trường lên án ủy ban này, và đó cũng là ý kiến của nhiều sinh viên Việt Nam vào thời đó, đã cách ly các sinh viên này trong một ngôi trường tại Joinville le Pont, trường Parangon, để cho họ khỏi bị ảnh hưởng của các nhân vật gây tranh cãi người Việt Nam đang sống lưu vong tại Paris. Về phần mình, Phan Văn Trường và một vài sinh viên lập ra hội đầu tiên của người Việt Nam tại Pháp, được chính thức công khai theo pháp luật năm 1901, Hội Đồng bào tương ái (La Fraternité). Phan Châu Trinh cộng tác với hội này, ông này là một gương mặt biểu trưng của hội. Nhà nho của thời đại cũ này đã bị kết án tử hình vì bị buộc tội là người xúi dục các phong trào nổi loạn tại miền Trung (Việt Nam - T.Đ.A.S.). Được đặc xá vì tội của ông chưa chắc chắn, ông bị giam tại nhà tù khổ sai Poulo Condore, và cuối cùng sống lưu vong tại Pháp. Vì vậy cho nên ông bị theo dõi chặt chẽ.
Việc lập ra cái hội của người Việt này làm cho André Salles lo lắng xem đó là một sự cạnh tranh nguy hiểm, ông tố cáo như là một nơi tổ chức đội ngũ cho giới trẻ Việt Nam và là nơi khuếch tán các tư tưởng chống chế độ thực dân.
Vậy là Phan Văn Trường buộc tội André Salles đã truy hại mình và là nguyên do cho việc kết án mình có âm mưu chống lại an ninh quốc gia làm cho ông bị ở tù vào năm 1913. Lần đầu tiên đọc cuốn sách của ông, tôi không thấy có gì chứng tỏ điều đó một cách rõ ràng, mặc dù André Salles là viên chức đã về hưu của Bộ Thuộc địa chắc chắn vẫn còn giữ các mối quan hệ và tiếp tục đóng một vai trò tích cực như ta đã thấy qua bức thư mà ông đã gởi ngay cho Bảo tàng Invalides để chia sẻ những nghi ngờ của mình.
Những rắc rối của Phan Văn Trường bắt đầu vào năm 1912 khi ông không thể gia hạn hợp đồng làm việc tại trường Ngôn ngữ Đông phương. Lý do đưa ra dường như rất hợp luật. Ông giám đốc trường Ngôn ngữ Đông phương cho biết là chỗ làm này không có tính nhất định và ông Bộ trưởng Bộ Thuộc địa có ý dành nó cho những người Việt Nam khác. Không có gì để nói, nếu không phải là “tính luân chuyển” này của chỗ làm trước đây không hề có.
Hồ sơ của Phan Văn Trường
Tôi nghĩ là việc biết cho rõ ràng đích xác đối với tôi là không khó. Tôi tìm hiểu tại trường ngoại ngữ đông phương, tôi đã xin phép tra cứu hồ sơ của Phan Văn Trường, thầy dạy tiếng Việt từ năm 1908 đến năm 1912. Người ta đã mang nó lên cho tôi từ tầng hầm của đường Lille nơi cất giữ văn thư lưu trữ. Thật là cảm động: sau khi đọc kỹ tác phẩm của ông, tôi đã có cảm tình với ông, cái ông người Việt bé nhỏ, và vậy là tôi có trước mắt thư từ của ông, chữ viết đúng mực, và cả những nhận xét về ông. Những lời ca ngợi: thông minh, có học thức, cẩn thận, nhà giáo giỏi, nhận xét năm 1910 ghi như vậy. Nhưng sau đó, ở một thời điểm không đọc được rõ, giọng điệu đã thay đổi: thông minh và trong sáng nhưng dường như không soạn bài trước. Mặt khác nói quá nhanh và không phải là một giáo viên tốt… viết rất ít hay không viết trên bảng.
Có phải người ta đã đánh giá thấp hơn vì lý do các hoạt động hội đoàn của ông? Có phải là ông đã bỏ mặc, đã dành ít nhiệt tâm hơn cho công việc của mình?
Nhưng phần sau của hồ sơ xác nhận các giả thuyết của Phan Văn Trường. Trước hết là có một biên bản cuộc họp của Ủy ban Paul Bert ngày 29 tháng 3 năm 1912, do André Salles ký tên là thư ký.
Tôi trích lại ở đây vài đoạn:
“Ông nhà nho này (Phan Châu Trinh - T.Đ.A.S.) cộng tác với ông Phan Văn Trường, thầy dạy tiếng Việt tại trường ngoại ngữ đông phương, cử nhân luật, công dân Pháp, lập ra các điều lệ bằng tiếng Việt (trong biên bản có gạch dưới) cho một thứ hội tương trợ lẫn nhau; nhưng các điều lệ này dường như có ý định tác động đến tư tưởng của các hội viên, một hoạt động mà Ủy ban Paul Bert, có lẽ, sẽ không thể chấp nhận đối với những người được giám hộ.
Và trước tiên hết cái tên của hội là La Fraternité được tạo thành bằng những từ rất mạnh “tình yêu thương thân thiết của những người anh em cùng một bào thai”, người ta muốn tạo ra những mối liên kết mạnh mẽ. […] Cũng cần phải ghi nhận mục đích chính xác của hội: 1) cho phép các đồng hương đi học xa nhà được hội họp thường xuyên, năng lui tới, liên lạc mật thiết và kết giao với nhau; 2) thăm viếng và chia sẻ với những người mới có chuyện buồn hay đau ốm; 3) bằng một sự phát triển không ngừng, tập trung cố gắng để đoàn kết, tự hoàn thiện trong tất cả mọi ngành học về văn chương và khoa học”.
Chương trình này ngày nay, đối với chúng ta xem ra khá vô hại, tuy nhiên hồi ấy lại làm cho Ủy ban Paul Bert lo ngại khủng khiếp: “…hội vừa nói, nếu nó hoạt động, chung qui lại sẽ là một uỷ ban Paul Bert nơi những tư tưởng Việt Nam sẽ làm chủ”.
Tuy nhiên ý kiến của ủy ban lại khác nhau: đây không phải là các nhà cách mạng nhưng là các nhà yêu nước nhắm đến việc đuổi người Pháp ra khỏi đất nước họ, với sự che chở và sự giúp đỡ của luật pháp của chính chúng ta…
Như vậy là càng nguy hiểm hơn nữa, theo quan điểm của họ…
Tóm lại, ủy ban quyết định cấm các người được giám hộ của ủy ban tham gia hội Fraternité, và dự định gởi bản báo cáo này cho Bộ Thuộc địa…
Và trong số các tài liệu khác, có một bức thư của Bộ Thuộc địa gởi cho Ban giám hiệu trường Ngôn ngữ Đông phương, có đóng dấu mật, mà tôi cũng trích lại một đoạn:
“Cũng cần nghi ngờ rằng, với ảnh hưởng của ông Phan Văn Trường, người mà ông Toàn quyền Đông Dương đã mô tả với tôi như một đầu óc rất có học nhưng kiêu căng, mánh khoé và mong muốn mình được lòng các đồng bào tại Pháp và tại Đông Dương, hội này trở thành một câu lạc bộ nơi trao đổi những cảm tưởng và các ý nghĩ ít có lợi cho việc cai trị của chúng ta…”
Ông Bộ trưởng Bộ Thuộc địa khuyên là không nên ký gia hạn thêm hợp đồng với Phan Văn Trường và gợi ý ở đoạn kết luận là phải tác động cho ông Toàn quyền Đông Dương về vấn đề đưa cái ông người Annam này trở về nước.
Đó là những gì đã có trong hồ sơ của ông, với các tài liệu khác nữa. Phan Văn Trường không phải là chỉ bị ám ảnh bị truy hại mà ông có lý. Trên thực tế ông đã bị cho thôi việc tại trường Ngôn ngữ Đông phương, như ông đã giả định là vớisức ép của Ủy ban Paul Bert đối với ông Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, sau khi Hội Đồng bào tương ái được thành lập.
Sự việc này xảy ra vào mùa thu năm 1912. Vụ trộm thanh kiếm và những lời buộc tội của ông Salles đối với những người cách mạnh Việt Nam nếu có đến sau đó một năm. Ông Salles có phải đã ám chỉ đến Phan Văn Trương, Phan Châu Trinh và các thành viên khác của Hội Đồng bào tương ái hay không?
Nhưng bức thư của Salles gởi cho ông tướng Niox, bức thư có khả năng xác định hay bác bỏ giả thuyết này, tiếc thay đã không tìm thấy được. Ông quản thủ Bảo tàng Invalides đã không tìm được một vết tích gì về nó. Tuy vậy, tôi vẫn hy vọng là nó đã được xếp vào trong một hồ sơ bị bỏ quên nào đó và ngày một ngày hai nó sẽ xuất đầu lộ diện.
Tuy nhiên, đừng quên rằng ông André Salles, người dường như đã từng làm công việc giám sát không chính thức, chắc chắn là phải biết rõ những chỗ ở của người Việt Nam tại Paris, và rằng những lời buộc tội của ông chắc chắn phải chỉ rõ những người bị nghi ngờ. Sự xung đột giữa ông và ông Phan Văn Trường như vậy là không có liên quan đến sự việc mà ta đang bàn. Mặt khác, Phan Văn Trường có thể đã không nói hết sự thật. Không thể nghi ngờ rằng ông đã bị kết tội nhầm nhưng điều đó không có nghĩa là ông là người không biết gì như ông đã khẳng định. Cả ông cũng biết rất rõ khu người Việt Nam ở và nếu âm mưu đánh cắp thanh kiếm đã được xúi dục trong vòng ảnh hưởng này thì rất có thể là ông cũng biết hoặc là cũng đoán biết. Hai tờ nhật báo đã tường thuật lại sự kiện; khó mà tin rằng trong khu người Việt Nam không ai biết gì. Vậy mà Phan Văn Trường không hề đề cập tới, trong khi ông lại lưu ý đến tác động của một gã nào đó… “Những con châu chấu” đã đả kích các thói quen thuộc địa tại Đông Dương, đã tạo scandal và đã bị cấm. Có nên chăng là cần phải đọc kỹ tác phẩm của Phan Văn Trường và tưởng tượng điều mà ông không nói tới, mặc cho thái độ của ông là làm ra vẻ một người đơn giản không muốn kiếm chuyện và tách ra khỏi mọi xung đột?
Dù sao thì cuộc điều tra cũng đã bị sa lầy… tôi cần phải thám hiểm các con đường khác.
Văn khố của cảnh sát và phần tiếp theo của cuộc điều tra
Tôi trông đợi nhiều đến văn khố của cảnh sát.
Vì vụ trộm đã được đăng báo và trong các báo người ta có nói đến việc lấy dấu vết và đến cuộc điều tra của ông cò Guérin, tôi nghĩ là phải có các báo cáo, các biên bản, các cuộc hỏi cung… tức là những dấu hiệu khác. Và thậm chí có thể là có những cái tên để khẳng định các giả thuyết của tôi hay làm cho cuộc điều tra có một ý nghĩa khác. Các báo cáo được để tại kho lưu trữ của cảnh sát, ở quận 5. Nhưng tôi thật sự thất vọng: trong các sổ sách của quận 7, vào các ngày 3, 4, 5 tháng 10 năm 1913, không có gì liên quan đến Bảo tàng Invalides. Tôi đã tra cả những ngày trước đó, những ngày sau đó, không có gì cả. Vụ trộm một cái cửa sắt trong một biệt thự nhà giàu, vụ bắt giữ một người say rượu làm ồn ban đêm, lời than phiền của một phụ nữ buộc tội người giúp việc của bà đánh cắp đồ bằng bạc… và thậm chí cũng không có gì xảy ra gần cạnh Bảo tàng Quân đội.
Tôi không hiểu, những người có trách nhiệm của kho lưu trữ cũng thế. Nếu cảnh sát đã được gọi đến thì chắc chắn phải có một dấu vết trong sổ sách báo cáo. Một người nào đó gợi ý là quay lại Bảo tàng Invalides nằm dưới quyền của quân đội: cuộc điều tra có thể nằm trong vòng nội bộ, do bên quân cảnh hay một cơ quan nào khác. Tuy nhiên, có tên của ông cảnh sát Guérin được đưa ra trong bài báo, xác nhận rằng cuộc điều tra đã được sở cảnh sát của khu phố thực hiện. Hỏi lại Bảo tàng Invalides, họ cũng không tìm thấy gì trong kho lưu trữ của họ. Vậy là cuộc điều tra của tôi bị tắc.
Phần tiếp của câu chuyện Phan Văn Trường, như ông đã kể lại trong cuốn sách của mình, rất là rối ren và các lý do mà vì chúng ông đã bị buộc tội là có âm mưu chống lại sự an ninh của quốc gia trong chiến tranh 14 -18, rồi sau đó được trả tự do, các lý do này không rõ ràng, và không chắc là ông André Salles đã là nguyên do của việc ông bị bắt giữ.
Các lý do này có thể là những thủ đoạn có thực hay giả định của ông hoàng Cường Để, một hoàng tử, bạn đồng hành của Phan Bội Châu, lánh nạn sang Trung Quốc, tại đó ông lãnh đạo một phong trào yêu nước có hành động nhiều lần tại đất Đông Dương, nhất là tại Sài Gòn trong các năm mà ta đang nói đến. Tôi không biết là các thành viên này có hoạt động tại Paris hay không vào đầu thế kỷ XX, và nếu có thì người ta có thể nghĩ tới sự có thể có tội của họ trong vụ việc thanh kiếm hay không. Vì cuối cùng, nếu ta định dạng của kẻ cắp (hay những kẻ cắp) vô danh tính này, làm sao ta có thể tưởng tượng ra? Vào năm 1913, loại người Việt nào có thể nghĩ đến một dự định như thế? Chắc là phải giả định là họ có một tình cảm yêu chế độ quân chủ mạnh mẽ, để rồi sự hiện diện của thanh kiếm trong tủ kính của Bảo tàng Quân đội xuất hiện như một biểu tượng chắc là không chịu nổi của sự chiếm đóng của người Pháp trên vương quốc Annam. Vậy thì là những người theo chủ nghĩa quân chủ hay sao, cũng chưa chắc. Biểu tượng này có thể có giá trị đối với tất cả những người yêu nước. Từ đó đã sắp đặt một vụ trộm? Và với mục đích gì? Mang trả lại vũ khí này cho kho tàng của đất nước à? Không thể được, vì vương quyền đã hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh của người Pháp rồi. Giữ kín thanh kiếm, trong tay của những người tự cho mình là chính thống hơn triều đình hợp tác của Huế à? Ta thấy còn có những người đi theo một ứng viên khác, vua Duy Tân, lúc đó đang làm vua tại Huế và dưới con mắt của nhiều người, là hiện thân của phẩm cách tìm lại được.
Tại Đông Dương, năm 1913
Đã xảy ra chuyện gì trong năm 1913 này tại Đông Dương? Albert Sarraut, Toàn quyền Đông Dương khi đó tỏ ra chú ý hơn đến các yêu sách của những người theo chủ nghĩa cải lương, chủ yếu là tỏ ra tôn trọng hơn các truyền thống quân chủ, nhưng các hy vọng mà những bài diễn văn của ông này gây nên đã bị dập tắt liền do không hề có một cải tổ nào xảy ra và vắng bóng sự đại diện thực sự về chính trị của người bản xứ. Thêm vào đó, chiến thắng của cách mạng Trung Quốc năm 1911 đã có một tiếng vang lớn trên các hoạt động chống đối và các ý tưởng dân chủ đã phát sinh. Người ta thấy có một sự thụt lùi hiển nhiên của việckêu gọi lập lại chế độ quân chủ. Tình hình tư tưởng chính trị này ngự trị bắt đầu từ các năm 1911 - 1912.
Vào tháng giêng năm 1913, một vụ tai tiếng nổ ra tại Huế: Khâm sứ Georges Mahé cho khai quật mộ vua Tự Đức để chiếm đoạt kho báu mà người ta cho là đã được chôn cùng với thi hài của nhà vua. Sự phạm thượng này đã gây ra một phản ứng rất mạnh, phản ứng này chắc hẳn cũng đã vang tới các nhóm người Việt sống lưu vong tại Pháp và chỉ sau khi kẻ phạm tội bị triệu hồi về thì nó mới giảm bớt. Giai đoạn này đặc biệt tác động tới vị vua trẻ tuổi Duy Tân. Ông này hai năm sau đó đã cầm đầu một phong trào khởi nghĩa bị thất bại và dẹp tan. Vua bị đày đi đảo Réunion và chết trong một tai nạn máy bay (vào đêm 25.12.1945 - T.Đ.A.S.). Nhưng năm 1913 vị vua này có thể là chưa có nhiều môn đồ để người ta có thể nghi ngờ rằng một trong những người đó đã âm mưu làm vụ trộm ta đang nói đến.
Năm 1913 là một năm có nhiều biến cố: tháng tư bom nổ tại Hà Nội, tháng ba nông dân biểu tình ở Chợ Lớn. Những biến cố này đã tác động đến Paris tại các cộng đồng người Đông Dương và điều đó giải thích việc củng cố các biện pháp quản lý sinh viên vào thời gian này. Sự hợp tác không chính thức của ông André Salles, ông này luôn có mặt bên cạnh các thanh niên người Đông Dương tại Paris và chắc chắn sự hợp tác này là rất quí báu đối với Bộ Thuộc địa. Nhưng bầu không khí lo ngại ngự trị trước nhiều yêu sách và một sự bất bình khá phổ biến, cũng như một thái độ hơi bị ám ảnh của chính quyền, chỗ nào họ cũng thấy có người cách mạng và sau hết là sự tập hợp các xu hướng một cách dễ dàng, do đó André Salles đã vội vàng kết tội các “nhà cách mạng Việt Nam” là đã phạm vào một vụ trộm có khi chỉ là một vụ trộm bình thường.
Hiện tại tôi không biết phải làm sao nữa. Tôi cần phải đọc kỹ các báo cáo về Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, năm 1914, với hy vọng có một điều gì đó đã được ghi trong báo cáo có liên quan đến thanh kiếm hay là khi hiểu kỹ hơn về hoàn cảnh vào thời kỳ đó tại Paris thì tôi có thể đưa ra các giả thuyết khác vững vàng hơn.
Sau cùng, thanh kiếm
Trong khi đang thực hiện các nghiên cứu này thì tôi nhận được một lời nhắn của Bảo tàng Quân đội: ông quản thủ vũ khí hẹn gặp tôi để cho tôi xem thanh kiếm hiện đang để ở trong kho và cho phép tôi chụp ảnh nó.
Trong xưởng phục chế các vũ khí cổ, nó được đưa ra trước mắt tôi. Tôi thật ngạc nhiên, đó là một tình cảm lạ lùng vì tôi đã nghĩ đến cái vũ khí này lâu đến như vậy, đã có ý theo dõi dấu vết của nó trong nhiều tài liệu đến như thế và cuối cùng được nhìn thấy nó nằm trước mắt. Tôi đã chỉ có một bài viết mô tả nó, là bài viết đã được đăng ở đầu bài này và tôi đã không hề thấy một sao chép nào khác, không hề có ảnh chụp, không hề có hình vẽ.
Tôi khi đó đang đứng trên một cái thang để chụp ảnh thanh kiếm được đặt trên một cái bàn thì đột nhiên tôi nghe ông quản thủ nhìn thanh kiếm mà nói rằng đây không phải là kiếm châu Á. Tại sao lại không phải là châu Á? Không phải, ông xác nhận, kiếm châu Á không có đường rãnh này, đây là một thanh kiếm châu Âu. Tôi choáng váng, thanh kiếm của vua Gia Long là một thanh kiếm châu Âu vàngười ta đã làm thêm một thanh che tay tại địa phương! Đó hầu như là một sự thất vọng khi khám phá ra rằng thanh kiếm này nguyên gốc không phải là của người Việt. Tôi sợ rằng đã làm bao nhiêu chuyện để rồi không có kết quả gì cả hay là chỉ vì một thanh kiếm đeo để trang trí, lấy được từ các địch thủ người Âu, hoặc có thể là do họ tặng; đột nhiên nó mất hết giá trị, nó không thể là biểu tượng của quyền lực.
Tôi tiếp tục chụp ảnh, khá lo lắng, và tôi bỗng có ý nghĩ rằng thanh kiếm này có thể đã là một quà tặng của một trong mấy ông quan người Pháp, Olivier de Puymanel, Chaigneau hay Vannier hoặc Giám mục d’Adran…
Và một con đường khác mở ra trước mắt tôi, một hướng điều tra khác, một thời điểm khác trong lịch sử.
Gia Long và các ông quan người Pháp
Vua Gia Long, còn có tên là Nguyễn Ánh, đã bị cuộc khởi nghĩa của anh em Tây Sơn đánh đuổi. Cùng với con trai, ông đã trốn ra đảo Phú Quốc, truyền thuyết kể rằng ông được một con cá voi đỡ trên lưng cứu thoát. Tại đấy ông đã gặp ngài Pigneau de Béhaine, Giám mục d’Adran, ông kể những nỗi gian lao của mình cho Giám mục. Những người quan tâm tới lịch sử Việt Nam đã biết đoạn cuối: Giám mục d’Adran và hoàng tử Cảnh sang châu Âu để đến Versailles cầu viện nước Pháp. Ông không quay lại nhưng vài anh chàng người Pháp tập hợp được từ khắp nơi, từ Pháp hay từ Ấn Độ đã chấp nhận phiêu lưu: Người đầu tiên là Olivier de Puymanel, một sĩ quan công binh quê ở Carpentras, Jean Baptiste Chaigneau là một thủy thủ lên bộ tại Ấn Độ, Philippe Vannier. De Forçant, Barisy, Dayot, bác sĩ Despiau và vài người khác. Nhờ họ, Nguyễn Ánh đã tìm lại được ngai vàng và những người Pháp này đã ở lại phục vụ ông, một vài người trong số họ, Chaigneau, Vannier, de Forçant, đã ở lại đến 30 năm. Họ trở thành các quan người Pháp, chỉ huy quân đội và các chiến thuyền. Olivier de Puymanel chết trẻ, nhưng ông đã từng là kiến trúc sư của nhiều thành lũy (ở Việt Nam vào thời đó - T.Đ.A.S.) và chắc là ông đã lập các bản vẽ của thành Huế mà ông không đủ thời gian để xem nó được xây dựng.
Chúng ta đã biết tiểu sử của họ, nhất là tiểu sử của Jean Baptiste Chaigneau và Philippe Vannier, hai người này ở lại phục vụ nhà vua lâu nhất, nhờ công việc của một nhà sử học không chuyên, một người uyên bác thật sự về cuộc phiêu lưu của các ông quan người Pháp này… Nhà sử học đó là André Salles.
André Salles, một nhân cách phức tạp
Vâng, trong câu chuyện này tất cả đều được tìm ra tất cả đều ăn khớp. Nếu André Salles đã hành động nhanh chóng như vậy khi ông đọc cái tin trong báo hàng ngày ngày 14 tháng 10 năm 1913, đó là vì ông biết rất rõ lịch sử của chủ nhân thanh kiếm này và ông mang ấn tượng về tình bạn lạ lùng giữa một ông vua Việt Nam, một người phải tuân theo các nghi lễ và giữ gìn ý tứ và những người Pháp vì thích phiêu lưu mà đến phục vụ ông và đã ở lại để làm cho vùng đất Đông Dương này trở thành một phần của tổ quốc họ. Một câu chuyện về sự trung thành và yêu mến lẫn nhau. Chắc chắn là đã được André Salles thanh cao hóa và hư ảo hóa như một lý tưởng không thể đạt tới ở một thời điểm mà các quan hệ Pháp - Việt còn lâu mới được hài hòa như vậy. André Salles là một người không hiểu,không muốn hiểu các yêu sách của những người trí thức mà ông gặp. Ngày nay ta cho ông là một người có thái độ gia trưởng thất vọng. Đây là điều mà ta thấy được từ mục danh sách người chết mà tôi thấy Tập san Nghiên cứu Đông Dương (Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises) đăng khi ông mất; tác giả của bài báo đưa ra trong đó một bức thư của André Salles gởi cho một người quen:
“Ông coi tôi như một người lý tưởng hóa; chắc chắn là tôi có một lý tưởng, đó là lý tưởng muốn thấy người Đông Dương tiến hóa trong một đường hướng rất Pháp, lý tưởng muốn nhìn thấy sự tiến hoá được thực hiện với những tình cảm tin tưởng và thân ái lẫn nhau. Tôi đã không nói tới điều đó nhưng P… và PH… đã cảm nhận được điều đó và chống lại tôi, tất nhiên do lý tưởng của họ là trái ngược lại […]. Năm vừa rồi, ở đây tại Paris, MG., người biết tôi rất rõ và người đã xưng là đại diện của đảng Lập hiến, còn kết tội tôi là chỉ muốn tạo ra những đốc công! Tôi không muốn làm ra những người mơ mộng; lý tưởng của tôi là làm ra những người thực tiễn, có đầu óc Pháp - Việt và sửa soạn tương lai. Đó là ý tưởng mà vài người Việt Nam vội vã đã cho là quá cũ kỹ và không tiến hóa […]
Tôi tiếp tục, với một chút chua chát, tôi nhượng bộ ông nhưng với sự thanh cao và minh triết.”
Bức thư mà tôi sao lại các đoạn trích này cho thấy rõ những khó khăn trong quan hệ giữa André Salles và những người Việt Nam lưu vong, trong bối cảnh căng thẳng của thời kỳ đó. Ông hành động một cách chua chát; đó là một phản ứng thường gặp trong bối cảnh thuộc địa bắt đầu từ khi có sự không hiểu nhau, từ khi những người bản xứ tỏ ra cứng đầu đối với hoàn cảnh của họ. Chính sự chua chát của một người thất vọng, người đã từng rất muốn dân bản xứ tương hợp với mình, phù hợp với hình ảnh mà ông đã tạo ra cho họ, sự chua chát này chắc hẵn đã đưa đến thái độ ngờ vực và việc tố giác khó chấp nhận được. Chắc ông không phải là mẫu người như vậy, các bài viết của ông rất lý thú và các bức ảnh mà ông chụp trong 2 lần sang làm việc tại Đông Dương vào các năm 1894 - 1895 chứng tỏ một cảm thụ thẩm mỹ cao, một sự nhạy cảm hiếm có và một lợi ích không thể chối cãi về những điều ông đã khám phá ra được.
André Salles rất hâm mộ các ông quan người Pháp và cuộc phiêu lưu của họ thật là kỳ lạ nên tất nhiên ta cũng có cùng cảm nhận như ông. Và những quan hệ với Đông Dương mà họ còn giữ có cái gì như là một thiên đường đã mất trước tội lỗi của tổ tông. Cuộc điều tra không đi qua lối đó, cũng không theo con đường thuộc địa hoá, những mối quan hệ không phải được xác định bằng việc dân tộc này bảo trợ dân tộc khác. Có thể là vì biết được điều đó mà ông tỏ lòng mong nhớ.
Thanh kiếm, một biểu tượng đổi mới
Tôi nhìn bức ảnh thanh kiếm, phóng to nó lên trong máy vi tính. Tôi phóng cận cảnh cái thanh che tay, mà tôi thấy hoàn toàn Việt Nam. Cái đầu con thú không phải là một con chó như bản mô tả của Bảo tàng Quân đội đã nói. Tôi phân biệt rõ trên đầu nó những cái vảy nhỏ được kẻ rất rõ, đó là một con rồng. Tôi tìm trong B.A.V.H., cuốn chuyên đề về nghệ thuật và tôi tìm ra được con rồng của tôi ở trên một thanh che tay của một thanh kiếm Việt Nam, giống hệt chính là một con rồng thuộc loại người ta hay gọi là con giao. Sau đó tôi xem xét bức ảnh phần phía trong của tay cầm. Có một motive trang trí thể hiện một cái lá cây sến, cái này lại không làm theo kiểu Việt Nam lắm. Phía dưới được trang trí những viên ngọc trai nhỏ và mã não hồng, một kiểu trang trí có thể là đông phương nhưng có thể có ảnh hưởng từ bên ngoài. Trên lưỡi kiếm có 3 chữ Hán, tôi không biết có phải là tên của Gia Long không, tôi không đọc được chữ Hán và tôi chỉ biết có chữ Thái nghĩa là to lớn. Xa hơn một chút là một mặt trời xuất hiện giữa các đám mây. Tôi đọc lại các số tạp chí, các bài viết về vua Gia Long. Một bài trao đổi của Léon Sogny về những cái đỉnh đã cho tôi một con đường: tôi thấy lại trên cái đỉnh dành cho vua Gia Long cái mặt trời hiện ra giữa những đám mây nhưng không có tên của vua, cũng không có một chú thích nào khác trên cái đỉnh này giống với ba chữ khắc trên thanh kiếm.
Tôi chuyển bức ảnh cho một người bạn Việt Nam chat trực tiếp với tôi. Những chữ của anh ấy hiện ra trên màn hình của tôi: “Đợi chút, tôi lấy tự điển đã”. Rồi lần lượt các chữ hiện ra: “Thái... Kiếm..” Tất nhiên tôi biết từ kiếm của Hoàn Kiếm. Từ cuối cùng đến hơi lâu. Anh ấy viết “đợi đó, tôi tìm đã”. Tôi cố gắng không mất kiên nhẫn. Cuối cùng tôi đọc: “A: lưỡi bằng sắt có tra cán”
Vậy đó, không phải là một trong các tên của vua Gia Long, mà đó là tên của thanh kiếm! Trong đó có ghi: lưỡi sắt có tra cán. Chính là thế, một lưỡi kiếm Pháp trong một chuôi kiếm Việt Nam. Tôi không biết 3 chữ đó được đọc như thế nào[2]. Có phải là “kiếm lớn có lưỡi bằng sắt có tra cán không? Có thể đúng là thế. Dù sao đi nữa thì cái khuy cũng đã cài lại rồi. Rất có thể là một thanh kiếm châu Âu được một ông quan Pháp tặng hay do chính giám mục d’Adran tặng cho Gia Long và ông này đã giữ lại như biểu tượng của tình bạn và biểu tượng này được lưu truyền lại không phải như biểu tượng của vương quyền Việt Nam mà là biểu tượng của một mối liên kết giữa hai quốc gia được thiết lập trên tình bạn này.
Tôi nghĩ rằng cây kiếm đã rời Huế vào ngày 5 tháng 7 năm 1885, ngày 5 tháng 7 năm 2005 nó sẽ tròn 120 năm, đúng hai lục thập hoa giáp[3]. Giữa hai lục thập hoa giáp đó là năm 1945. Ta không thoát khỏi các biểu tượng: 1885, chấm dứt vương quyền Việt Nam, người Pháp đô hộ; 1945, chấm dứt sự đô hộ của người Pháp, Việt Nam chiến thắng. Âm và dương, chiến thắng và thất bại, mọi thứ thay đổi cho nhau.
Năm 2005 tôi tìm thấy một thanh kiếm và khi tìm lại các dữ liệu lịch sử của nó tôi đã lục khắp lịch sử Việt Nam. Hay đúng hơn là lịch sử của các quan hệ giữa Pháp và Đông Dương, một lịch sử mà tôi tính lùi lại trong sự lộn xộn: 1885, Kinh Thành Huế thất thủ, 1913 các nhà cách mạng ở Paris; 1805 xây dựng Kinh Thành, 1802 bắt đầu triều Gia Long. Tôi thấy đây là một cách kể lại lịch sử rất hay và tôi nghĩ đến câu nói của Michel de Certeau, ông nói rằng nghiên cứu lịch sử là một cách giảm bớt số người chết. Hay để tưởng nhớ tới họ. Hay là để như người ta nói là tính đến họ. Trong khi quay lại lịch sử như thế tôi đã gặp gỡ những nhân vật mà người ta quí mến ngay, các ông quan người Pháp, Olivier de Pyumanel, người Pháp trẻ đã xây dựng các phòng thành (ở Việt Nam - T.Đ.A.S.) và đã chết quá trẻ vì bệnh lị, Jean BaptisteChaigneau, người đã sống hơn 30 năm với người bạn Philippe Vannier tại triều đình Huế và là người rất ham mê cây lá và các dược phẩm, de Forçant, hăng máu và vô kỷ luật, nổi loạn và can trường, Phan Văn Trường, thầy dạy kèm tiếng Việt rụt rè và xa cách, Phan Châu Trinh, người đã đọc Rouseau qua bản dịch tiếng Trung và là người tìm cách thuyết phục một cách ngây thơ ông Bộ trưởng Bộ Thuộc địa bằng những bức thư dài về sự cần thiết phải có các cải tổ mà ông khuyên nên làm, ông tướng Thuyết sôi nổi và ông Tường nhà chiến lược, vua Hàm Nghi vừa khóc vừa rời khỏi cung điện bị tàn phá của mình, vua Duy Tân, ông vua nổi loạn, các tham biện Lemaire và Palasne de Champeaux và cả André Salles qua tiểu sử của Chaigneau do ông viết và bức ảnh thật đẹp chụp sau lưng một phụ nữ tựa người vào bơi chèo của cái thuyền của mình trong một cử động duyên dáng trộn lẫn với sức mạnh, và còn nhiều thứ khác nữa, nhiều thứ gặp được trong các kho tư liệu và trong sách.
Tôi cũng có những người cung cấp tư liệu được chọn lựa, những cộng tác viên quí giá: Cadière, Le Bris, Sogny, Cosserat, Sallet, những người mà tôi đã quen từ hồi còn nhỏ, họ rất thân thiết đối với tôi như những người bà con xa, những ông bác không phải là người châu Mỹ mà là người Đông Dương…
Ngày 5 tháng 7 năm 2005, là ngày tròn hai lục thập hoa giáp, một năm Dậu thứ ba. Tôi tự nhủ là tôi muốn ở Huế vào ngày đó, muốn đi trong Kinh Thành, quay lại các con đường, tìm lại Mang Cá, những chiếc đỉnh, các cung điện đã mất, tìm lại dấu vết của vua Hàm Nghi khi bôn tẩu, tưởng tượng ra điều đó, đi cho đến lăng Gia Long, đến lăng Đồng Khánh nơi khách du lịch không đến.
Nhưng tôi không biết hết mọi chuyện. Chưa biết hết, còn rất nhiều các khoản tối, còn nhiều câu hỏi chưa có câu trả lời. Những chi tiết khác sẽ đến bổ sung, các dấu vết ít ỏi, những chi tiết rất nhỏ, nhưng từng chút từng chút sẽ lấp đầy các thiếu sót. Chúng ta có tìm ra cái bao kiếm hay không? Chúng ta có bao giờ biết được ai là người đã đánh cắp nó hay không? Có thể một ngày nào đó chúng ta sẽ có bằng chứng chứng tỏ rằng đây là một quà tặng của một trong các ông quan người Pháp tặng cho nhà vua không? Chúng ta có thể biết được việc tặng quà này xảy ra trong những hoàn cảnh nào không? Có thể mơ về điều đó. Những tư liệu khác, những bài viết khác, ở Pháp, ở Việt Nam, có thể là ở nơi khác có chứa các chi tiết sẽ cho phép chúng ta dần dần bổ sung cho bức tranh. Và nếu chúng ta không thể tìm ra tất cả các câu trả lời thì cũng không sao. Mọi người đều hiểu rằng trong một cuộc tìm kiếm thì điều quan trọng là việc tìm kiếm.
Một cuốn sách sẽ được xuất bản trong vài tháng nữa, tôi đã hoàn tất việc biên tập nó, điều này làm cho các chi tiết của cuộc điều tra được xác định rõ hơn và các chi tiết khác đang còn được phân tích.
Và để câu chuyện còn tiếp tục, để mọi người có thể mang đến các thông tin, các gợi ý, các suy diễn, các lời bình của mình, tôi sẽ lập một trang web và trong khi chờ đợi thì sẽ làm một thư điện tử: thư về thanh kiếm. Chỉ cần liên lạc với tôi qua địa chỉ hộp thư điện tử sau đây sabregialong@hotmail.frthì thư trả lời được gởi cho bạn, để bạn có thể theo dõi được các tiến trình của cuộc điều tra và tham gia vào đó.


[1] Trong khuôn viên của Hôtel National des Invalides có mộ phần của vua Napoléon - T.Đ.A.S.
[2] Đó là 3 chữ:  (Thái A Kiếm). Xem ảnh 3. Về tích Thái A Kiếm, nhà nghiên cứu Võ Quang Yến (Paris, Pháp) đã tra cứu: Từ điển Từ ngữ Điển cố Văn học của Nguyễn Thanh Giang, Lữ Huy Nguyên, Nxb Văn học, Hà Nội (1989), tr. 569 và Từngữ Văn Nôm của Nguyễn Thanh Giang, Nxb Khoa học Xã hội, Tp Hồ Chí Minh (1998), tr. 673, và cho biết như sau: “Lúc nhà Tần chưa diệt được Ngô, Trương Hoa xem thiên văn thường thấy giữa sao Đẩu và sao Ngưu có luồng khí màu đỏ tía, các đao thuật đều nói đó là điềm báo nước Ngô đang buổi cường thịnh, chưa đánh được. Riêng Trương Hoa cho lời nói đó không đúng. Đến khi đánh lấy được Ngô rồi, luồng khí lại mạnh và sáng hơn. Trương Hoa mới đem chuyện hỏi Lôi Hoán, người giỏi về thiên văn thuật số. Lôi Hoán cùng Trương Hoa lên lầu cao quan sát một hồi lâu. Lôi Hoán nói: “Chỉ giữa sao Đẩu và sao Ngưu là có luồng khí lạ đó. Ấy là cái tinh của bảo kiếm ở Phong Thành xông lên tận trời đấy”. Trương Hoa nói: “Quả vậy, nay tôi muốn phiền anh ra làm quan lệnh ở đất ấy rồi ra công tìm gươm báu cho”. Lôi Hoán nhận lời. Ông đến Phong Thành, cho đào nền nhà ngục, thì tìm ra được một cái hòm đá nằm sâu dưới lòng đất hơn bốn trượng. Khi sáng lóe ra, bên trong có hai thanh gươm, một thanh có khắc chữ Long Tuyền, và một thanh khắc chữ Thái A. Đêm hôm đó không thấy luồng khí lạ ở giữa sao Đẩu và sao Ngưu nữa” … Cuốn Thành ngữ Điển tích Từ điển của Diên Hương, Nxb Đồng Tháp (1992), tr. 117-118, cho biết: Nguyên quán hai thanh kiếm trống Long Tuyền và máiThái A nầy trong Tể tướng kiếm, trước mang tên Can Tương và Mạc Da trong Nguyên nhân kiếm. Ngô Hạp Lư đời Đông Châu giết anh lên ngôi, khiến Can Tương là một tên thợ rèn gươm có tiếng, rèn riêng cho mình một lưỡi gươm. Can Trương tìm sắt tốt vàng ròng, rồi lựa ba trăm con gái còn tơ đốt than nung lò ba tháng mà vàng không chảy. Vợ Can Tương là nàng Mạc Da nói, rèn cái gì mà không hóa thì cần phải có người để cúng mới nên. Mạc Da mới tắm gội sạch sẽ, cắt tóc nhổ răng, khiến người quạt lửa cho đỏ rối gieo mình vào lò than. Vàng sắt đều chảy. Can Tương lấy đó rèn hai lưỡi gươm, một lưỡi thuộc dương đặt tên là Can Tương, một lưỡi thuộc âm đặt tên là Mạc Da. Rồi Can Tương đem lưỡi Mạc Da dâng cho Hạp Lư, còn lưỡi Can Tương thì dấu để lại cho mình. Hạp Lư biết được giận lắm, sai người qua đoạt. Can Tương lấy gươm liệng lên hóa rồng cỡi đi mất” - T.Đ.A.S.
[3] Nguyên bản tiếng Pháp ghi là: “Deux cycles complets”. Chúng tôi tạm dịch là “hai lục thập hoa giáp” cho đúng với ngôn từ Việt ngữ - T.Đ.A.S.