THANH KIẾM CỦA VUA GIA LONG
Dominique Rolland*
(Thúy Vi dịch từ bản tiếng Pháp)

 

Tôi quen Dominique Rolland qua sự giới thiệu của một người bạn là GS. Thomas Ulbrich. Là một người Pháp, nhưng Dominique Rolland có mối quan hệ sâu đậm với Việt Nam. Năm 2006, Dominique Rolland đã xuất bản cuốn sách De sang mêlé (Nxb Elytis) viết về thế hệ người Pháp lai Việt sinh ở Việt Nam trong thời kỳ thuộc Pháp.
Ông của Dominique Rolland, Charles Hartercũng là một người mang dòng máu lai Pháp-Việt, và là giáo viên môn Toán ở trường Khải Định (trường Quốc Học Huế) từ năm 1926 đến năm 1946. Sau đó ông làm đốc học từ năm 1949 đến năm 1950. Dominique Rolland cho tôi hay, trong thời gian Charles Harter giảng dạy tại trường Quốc Học Huế, (Tướng) Võ Nguyên Giáp từng là học sinh của ông ấy và là học sinh xuất sắc nhất lớp. Guy,con trai của Charles Harter, cậu của Dominique Rolland, cũng sinh ra và lớn lên ở Huế nhưng đã bị người Nhật giết chết trong khuôn viên của Dinh Khâm sứ vào đêm 9.3.1945, khi Nhật đảo chính Pháp.
Ngôi nhà của gia đình Dominique Rolland ở Huế trước đây nay là trụ sở của Công ty Điện báo Điện thoại thuộc Bưu điện Thừa Thiên Huế (ở đường Hai Bà Trưng).
Dominique Rolland dự định sẽ trở lại Huế vào năm tới để nghiên cứu những tư liệu liên quan những bài viết của Bác sĩ Sallet, thành viên của Hội Đô Thành Hiếu Cổ, công bố trên Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H.) về lịch sử và văn hóa Việt Nam, đặc biệt là lịch sử và văn hóa Huế.
Biết tôi từng là Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, là nơi lưu giữ nhiều kỷ vật của triều Nguyễn, Dominique Rolland gửi cho tôi bài viết Le sabre de l’empereur Gia Long với hy vọng sẽ cùng hợp tác để truy tìm lai lịch của một thanh bảo kiếm, được cho là của vua Gia Long, hiện đang trưng bày ở Musée de l’Armée (thuộc Hôtel National des Invalides) ở Paris, Pháp.
Nhận thấy đây là một bài khảo cứu công phu, chứa đựng nhiều tư liệu có giá trị, liên quan đến một giai đoạn bi tráng của lịch sử Việt Nam, tôi xin phép Dominique Rolland chuyển dịch bài viết này sang Việt ngữ và công bố ở Việt Nam và được tác giả đồng ý.
Xin giới thiệu với độc giả Cổ vật tinh hoa bài khảo cứu rất công phu này của Dominique Rolland.
Trần Đức Anh Sơn
Giới thiệu và chú giải

 

Việc điều tra này bắt đầu một cách hết sức tình cờ và tiến trình đáng ngạc nhiên của nó chứng tỏ thêm một lần nữa rằng việc đọc tạp chí của Hội Đô Thành Hiếu Cổ (Association des Amis du Vieux Hué) không ngừng đưa chúng ta đi từ khám phá này đến khám phá khác.
Cách đây gần một năm, khi từ Việt Nam trở về, tôi bị một trận cúm nặng do khí hậu châu Âu khắc nghiệt quá và phải nằm liệt giường, trong tình trạng đau ốm nằm dài ấy tôi không đọc được sách vở chuyên môn mà chỉ được đọc tạp chí để giải trí, do đó tôi mới đọc B.A.V.H. bản điện tử. Tình trạng trí óc này cũng có tầm quan trọng của nó: nếu như tôi khỏe hơn thì tôi đã bắt đầu làm việc như thường tôi vẫn làm thế, tức là đọc những bài viết nhắm đến các vấn đề nghiên cứu của tôi và chỉ những bài như thế mà thôi. Thay vì như thế tôi lại đọc những thứ mà thường khi người ta không đọc bao giờ, tức là các chú thích và báo cáo của các kỳ họp, tiểu sử của một vài tác giả vừa mới mất.
Các tài liệu của André Salles
Chính như thế mà tôi đã khám phá ra trong tạp chí tháng 10-12 năm 1933 bài viết có tên Tài liệu của ông André Salles do ông Henri Cosserat viết. Phần mở đầu của bài viết cho độc giả biết rằng sau khi ông André Salles là thanh tra các xứ thuộc địa và là người cộng tác thường xuyên của tạp chí mất đi, bà vợ góa của ông ấy đã chuyển cho Hội Đô Thành Hiếu Cổ những tư liệu mà ông đã thu thập được khi đang còn làm việc. Trong số giấy tờ này có hai bài báo cắt ra từ các báo tháng 10 năm 1913, hai tài liệu này đã làm cho các ông André Salles và Henri Cosserat ngạc nhiên, cả tôi cũng vậy. Chúng như thế này:
Tài liệu 1: Tiểu mục đăng trong tờ Nhật Báo ngày 3 tháng 10 năm 1913
Một vụ trộm tại Bảo tàng Quân đội
Có người đã đập vỡ một tủ kính và lấy cắp một thanh kiếm của người Annam.
Hôm qua, thứ Năm khi công chúng đến thăm phòng trưng bày của Bảo tàng Quân đội tại les Invalides [tức Điện Quốc gia Phế binh (Hôtel National des Invalides - T.Đ.A.S.], vào lúc 4 giờ, khi bảo tàng đã đóng cửa, các bảo vệ đi tuần tra một vòng như thường lệ thì thấy có một tủ kính trưng bày bị đập vỡ và một thanh kiếm của người Annam cùng bao của thanh kiếm và dây đeo đã biến mất.
Thanh kiếm, bao và dây đeo đều được nạm vàng, đá quí và một viên ngọc trai. Tất cả có một giá trị khá lớn.
Cuộc điều tra được tiến hành không tìm ra được manh mối gì. Người ta đã lấy được dấu vết trên tủ kính, tủ này đã được mở bởi một bàn tay rất khéo léo với một cây dao bằng thép rất nhỏ.
Số lượng người đến thăm Bảo tàng hôm qua khá lớn và phần lớn là người nước ngoài.
Tài liệu 2: Tiểu mục đăng trong tờ Thời Báo ngày 4 tháng 10 năm 1913
Vụ trộm tại Bảo tàng Quân đội
Một vụ trộm quan trọng đã xảy ra tại Bảo tàng Quân đội ngày hôm qua. Trong khi các nhân viên bảo vệ hướng dẫn khách tham quan trong các phòng thì một kẻ gian to gan chưa biết là ai đã phá ổ khóa một tủ kính trong đó trưng bày một số các vũ khí của người Annam đã được mang từ Annam về trong cuộc viễn chinh đầu tiên của người Pháp.
Hắn đã lấy trộm một bao kiếm bằng da có dát vàng lá và nạm đá quí và một dây đeo bằng da có nạm đồ trang sức và ở móc khoá có răng cưa có nạm một viên đá lớn.
Tướng Niox là giám đốc của Bảo tàng Quân đội và ông Guérin là uỷ viên cảnh sát đang điều tra.
Đối với công chúng thời đó thì đây chỉ là hai tiểu mục trong báo chí hàng ngày. Vụ trộm này, hay nói đúng hơn là âm mưu ăn trộm này, làm phát sinh nhiều câu hỏi cho những người hiểu biết về lịch sử Đông Dương. Chín mươi năm sau sự ngạc nhiên của tôi chắc chắn cũng không khác gì sự ngạc nhiên của ông André Salles. Làm cách nào và trong hoàn cảnh nào mà thanh kiếm của Gia Long lại có thể đến tận Invalides được? “Đã được mang từ Annam về trong cuộc viễn chinh đầu tiên của người Pháp” tác giả của bài báo đã nói. Ông ta đã nói tới “cuộc viễn chinh đầu tiên” nào? Các cuộc viễn chinh tại Đông Dương, tại Tourane (Đà Nẵng - T.Đ.A.S.), vào những năm 1860? Việc chiếm Thuận An, năm 1883, hay cuộc cướp phá Kinh Thành Huế vào tháng 7 năm 1885? Nhưng dù là trong trường hợp nào thì tất cả các thời điểm trên cũng sau thời gian trị vì của vua Gia Long, ông này đã mất vào năm 1820. Phải chăng vị vua này đã ban tặng nó cho một đặc phái viên người Pháp trong một cuộc trao đổi quà cáp nào đó, nếu có, vào dịp ký kết các hiệp ước, hơn là do cưỡng bức? Tôi không nhớ là đã từng đọc thấy kể ra ở đâu đó các trao đổi như vậy. Giả thuyết có khả năng đúng nhất theo tôi thì dường như thanh kiếm này là một chiến lợi phẩm, và trong trường hợp đó thì tôi thiên về thời điểm ngày 5 tháng 7 năm 1885 nhiều hơn, vì lúc đó Kinh Thành đã bị cướp sạch, kho tàng bị cướp, Tử Cấm Thành bị tàn phá.
Bài báo đầu tiên không hề nói gì đến nguồn gốc của thanh kiếm này, cũng không nói tại sao nó lại nằm tại Bảo tàng Invalides, chỉ nói đơn giản rằng “nó có giá trị lớn”, cái bao kiếm có dát vàng lá và đá quí. Điều đó chắc là để đưa ra một mục tiêu có thể chấp nhận được cho vụ trộm.
Tuy nhiên sự việc xảy ra vào ban ngày… thanh kiếm và bao kiếm chắc hẳn phải có kích thước lớn, không phải dễ dấu. Chắc là dưới một cái áo khoác? Vào tháng 10 ở Paris trời đã lạnh rồi. Tôi không biết là hồi ấy các ông mặc đồ như thế nào, tôi nghĩ là các loại áo khoác dài hay là cái áo manteau rộng hơn… Kẻ cắp chắc hẳn đã chuồi cái bao kiếm dưới áo, dọc theo người hay là hơi nghiêng. Hắn đã chỉ lấy cái bao kiếm, nhưng rõ ràng là hắn cũng có thể lấy luôn cây kiếm và dấu hai vật đó mà khách tham quan và bảo vệ không thấy hay không? Hắn đã bị phá đám hay sau khi cân nhắc kỹ hắn đã chọn chỉ lấy cái bao kiếm vì nó có giá trị lớn với vàng lá và đá quí…
Phá một cái tủ trưng bày, chuyện đó không phải là quá khó. Thời đó không có hệ thống báo động mà chỉ là các tủ có cửa kính với một cái khóa thường thường. Tôi tưởng tượng là chỉ cần quay lưng lại với tủ kính, chuồi một lưỡi dao vào khe hở giữa cái cửa và khung cửa, ở chỗ có ổ khóa và bẩy ra một cách nhẹ nhàng… Người bảo vệ có thể thông đồng, đôi khi có trường hợp đó, nhưng điều đó cũng chưa chắc, dù sao thì cũng có không ít những vụ trộm tranh xảy ra vào ban ngày trong nhiều bảo tàng ở châu Âu, ngay trước mũi bảo vệ và gần đây cũng có…
Có một bài báo đã nói đến việc lấy dấu vết trên tủ kính. Người đàn ông đó không mang găng tay… Đó phải là một người đàn ông vì cần phải có một cái áo khoác để dấu thanh kiếm, và tôi không tưởng tượng ra nổi một người đàn bà làm điều này… Nhưng ở trên tủ kính đó các dấu vết có thể là dấu vết của một khách tham quan nào đó đã tỳ tay vào để nhìn hay là dấu vết của một bảo vệ. Để biết thêm về điều này, cần phải xem lại các báo cáo của cảnh sát nếu có và nếu chúng còn được giữ cho đến nay.
Có những câu hỏi khác được đặt ra khi đọc các bài báo này. Tờ báo đầu tiên lưu ý rằng có nhiều khách tham quan vào chiều ngày thứ Năm đó, và phần lớn là người nước ngoài. Tại sao tờ báo cần phải nêu lên điều đó? Một sự lui tới bất thường, nhiều hơn bình thường, giả thích cho việc vụ trộm đã không bị bắt gặp. Nhưng tại sao lại nhấn mạnh đến sự có mặt của người nước ngoài? Có phải đây là một phóng viên bài ngoại đặc biệt lúc nào cũng nghi ngờ người nước ngoài, kiểu coi mặt bắt hình dong? Và mặt khác, tại sao vào ngày thứ năm đó lại có nhiều người nước ngoài hơn các ngày khác tại Bảo tàng Quân đội? Vào năm 1913 chưa có những chiếc xe ca cỡ lớn đổ những đoàn du khách xuống sân Bảo tàng Invalides… Chỉ trừ trường hợp… người ta nghi ngờ những người Việt Nam yêu nước đã thực hiện vụ trộm vì một lý do yêu nước. Dù sao đi nữa thì Gia Long là người lập ra vương triều Nguyễn, và cây kiếm này là của ông ấy và là một biểu tượng của vương quốc, của một vương quốc đã bị mất sạch quyền lực dưới sức mạnh của lưỡi lê và súng cối của người Pháp. Không gì cấm được việc nghĩ rằng một cá nhân riêng lẻ hay một nhóm người đã có ý muốn lấy lại vũ khí này để đem về tổ quốc và trao lại cho linh hồn của người sở hữu chính thức của nó. Biểu tượng vương quyền của vương quốc Annam chắc có lý do làm phát sinh một vụ trộm với chủ đích chiến đấu.
Điều làm tôi chú ý, đó là nếu tôi nhớ không lầm thì vào năm 1913 tại Paris có khá nhiều các nhà cách mạng. Vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ, cho đến chiến tranh 1914, tất cả hay hầu như tất cả họ đều ở đấy: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh, cả Hồ Chí Minh nữa, và còn những người khác, trong số đó có nhiều sinh viên. Tôi tự nhủ là phải xem xét, phải đọc lại các tác phẩm lịch sử được viết về khoảng thời gian này, giai đoạn mà tôi không rành lắm, để có ý tưởng về nó.
Nhưng trước tiên là phải tìm lại thanh kiếm, nếu nó còn ở Paris.
Uống hai gói Aspirine, vì sự kích động mà các vấn đề này làm nảy sinh ra đã làm tôi phát sốt, tôi gọi cho Bảo tàng Quân đội. Kết quả đáng thất vọng. Người chuyên trách, người đáng ra đã có thể trả lời tôi, không có mặt tại văn phòng, người ta khuyên tôi là nên viết thư. Tôi đã viết một cái thư, tóm tắt câu chuyện và hỏi thanh kiếm có còn nằm ở Bảo tàng hay không.

Ba tài liệu khác…
Mất một thời gian tôi mới nhận được câu trả lời, và trong thời gian này tôi đã thăm dò nhiều con đường khác. Di sản của ông André Salles để lại còn có nhiều thứ khác đã làm cho việc điều tra của tôi đi theo những hướng mới. Trước hết là một bức thư của tướng Niox, Giám đốc Bảo tàng Invalides, mà tôi trích đăng ở đây:
Thiếu tướng Niox
Giám đốc Bảo tàng Quân đội,
thuộc Bảo tàng Invalides.
 
Gởi ông Salles, thanh tra các xứ thuộc địa đã về hưu
                                                                                  23 đường Vanneau, Paris
 
                                                                               Ngày 6 tháng 10 năm 1913
Thưa ông,
Tôi xin ghi nhận những nhận định mà ông đã gởi cho tôi về vấn đề âm mưu của các nhà cách mạng Việt Nam mà theo ông họ có thể là người đã thực hiện vụ trộm. Tôi lại không tin vào điều đó, thanh kiếm không bị mất mà chỉ bị mất bao kiếm thôi và tôi rất nghi ngờ về tác giả của vụ trộm.
Tuy vậy tôi vẫn xin cảm ơn ông về những lời khuyên mà ông đã đưa ra và tôi sẽ sử dụng chúng.
Xin ông nhận nơi đây những lời cám ơn chân thành nhất và lòng tôn trọng của tôi.
Tướng Niox
Bức thư gửi cho ông Salles là thư trả lời một bức thư của ông này mà ta không có, nhưng ta có thể đoán ra nội dung một cách dễ dàng. Chắc chắn ông này đã tố giác, có thể là không xác định danh tính, nhưng chỉ rõ một nhóm người, “các nhà cách mạng Việt Nam”. Ta có thể tưởng tượng điều gì đã xảy ra: André Salles là công chức về hưu của Bộ Thuộc địa, giải trí bằng việc nghiên cứu lịch sử Đông Dương, đã viết nhiều bài đăng trong B.A.V.H. mà ông là một biên tập viên nhiệt tình. Không có gì ngạc nhiên khi các bài viết trên nhật báo làm ông chú ý. Là thanh tra ở các xứ thuộc địa, ông cũng biết là tại Paris có nhiều gương mặt nổi cộm của cuộc chiến chống lại hệ thống thuộc địa. Thư trả lời của ông Niox ghi ngày 6 tháng 10 làm ta nghĩ rằng ông André Salles đã gởi bức thư của mình ngay sau khi đọc nhật báo ngày hôm đó. Tại sao lại nhanh như vậy? Không lẽ ông lại tự tin đến như thế? Ông có lý do đặc biệt nào để nghi ngờ vài người trong bọn họ không?
Ông là người rành lịch sử Việt Nam, chắc chắn là giỏi hơn ông tướng Giám đốc Bảo tàng Quân đội và tầm quan trọng có tính biểu tượng của thanh kiếm làm ông chú ý.
Nhưng những nhà cách mạng Việt Nam, như ông đã gọi, không phải ai cũng tôn sùng vương quyền, mà trái lại, sự chống đối chế độ quan lại quan liêu đã có: nói đúng hơn họ là những người hâm mộ Danton, Camille Desmoulins và Louis Michel.
Cuộc điều tra có tiến triển
Nói đúng ra thì có thể không phải là tất cả, năm 1913, phong trào còn đang rất tạp nham, bao gồm những người và nhóm người có nguồn gốc khác nhau và không phải được đúc cùng một khuôn. Có vài cá nhân đại diện cho các tầng lớp trên gồm những người đã đi học hay đang theo học, họ thích sự hiện đại và chối bỏ hệ thống cũ xưa kể cả thực dân lẫn tầng lớp thống trị của xã hội Việt Nam. Nhưng cũng có, nhất là những người lớn tuổi, các nhà nho, vẫn còn gắn bó với sự đào tạo cổ điển và lúc nào cũng nhạy cảm với kiểu mẫu Khổng giáo, nơi mà vua nằm ở trung tâm, là trục của trái đất, là gạch nối giữa trời và đất. Đó là những người hoài niệm phong trào cách mạnh lớn của những năm 1886 - 1890, gọi là Cần Vương, vào thời đó đã bị dập tắt hẳn rồi. Giữa hai cực hiện đại và truyền thống này có hai cách chống đối lại chính sách thuộc địa, nhiều hành động diễn ra và tất nhiên là ta không thể loại trừ việc đối với một số người trong bọn họ thì sự hiện diện của thanh kiếm tại Bảo tàng Invalides này là biểu tượng không thể chịu đựng được của sự chiếm đóng của nước Pháp trên đất nước Việt Nam. Trong trường hợp này thì ta tưởng tượng được là có một người nào đó, trong một phút bất chợt động lòng hay bị xúi dục bởi một nhóm nhỏ các nhà hoạt động cách mạng lãng mạn, đã thực hiện hành động. Trong trường hợp đó thì tôi sẽ nghĩ đến các sinh viên: tôi không tưởng tượng ra những người chống đối lớn tuổi hơn và bị theo dõi chặt chẽ hơn, họ có thể bị bỏ tù nếu có một hành động có ý nghĩa dù không có ảnh hưởng đáng kể, những người này sẽ không liều mạng vì một lợi ích nhỏ như thế. Họ là những nhà chiến lược lớn nên sẽ không làm điều đó, hay ít ra là theo tôi nghĩ.
Vậy là tôi quyết định theo đuổi, tìm tòi trong các sách vở, kho tư liệu của thời kỳ đó nhằm dựng nên khung cảnh của cuộc cách mạng Việt Nam để ít ra có một hiểu biết riêng cho mình và thử tìm hiểu ai là người mà ông Salles đã nói đến…
Trong các giấy tờ của ông Salles có một tư liệu khác, trích ra từ câu chuyện mà ông Jules Boissière, nhà văn và nhà báo, đã kể về cuộc du hành của mình tới Đông Dương và cuộc gặp mặt vua Đồng Khánh khi ông đi ngang qua Huế vào năm 1888:
“Vua nói một cách kín đáo về hai vật quí, đã bị mất khi Huế bị cướp sạch: thanh kiếm của vua Gia Long, người sáng lập triều đại và một chuỗi kim cương được làm từ đời Gia Long khoảng 1802 đến đời Tự Đức khoảng 1880 mới xong. Vua sẽ mỉm cười khi nhắm mắt nếu có thể mua lại và hoàn trả lại cho kho tàng hai thứ đồ châu báu có tính lịch sử và biểu tượng này mà nếu bảo tồn được chúng thì vua sẽ được phước và bảo tồn được nòi giống…”
Vua Đồng Khánh được người Pháp đặt lên ngôi sau khi họ chiếm được Kinh Thành vào tháng 7 năm 1885 để thay thế em của ông là Hàm Nghi khi đó đang bôn tẩu. Sự yêu cầu này, mua lại - chứ không phải là đòi trao trả lại, chứng tỏ tầm quan trọng của thanh kiếm này đối với vương quyền ở Huế. Vua nói đến nó như là một “báu vật lịch sử và biểu tượng mà có nó thì ông sẽ có phước và bảo tồn được nòi giống”. Yêu cầu - kín đáo - này, đệ đạt cho một nhà văn đi ngang ghé qua - mà không phải một cách trực tiếp cho các đại diện của nước Pháp, những người chuyên trách về các vấn đề dân sự và quân sự - yêu cầu này chắc là đã không đi tới đâu, có thể vì ông Boissière đã không chuyển lời, cũng có thể là nó không có hiệu lực vì 15 năm sau cây kiếm vẫn còn được trưng bày ở Bảo tàng Invalides làm cho kẻ cắp thèm thuồng.
Trái lại, tôi chưa bao giờ nghe nói đến cái chuỗi hạt kim cương mà việc sản xuất đã kéo dài tới gần 80 năm…
Về cái chuỗi hạt này (Tại sao lại dùng từ chuỗi hạt? Thật ra nó là cái gì? Một cái chuỗi đeo cổ chăng? Để dùng làm gì?) cũng như về cây kiếm, có thể là tài liệu sách vở Việt Nam có nói đến và tôi đã yêu cầu liên hệ với vài sử gia Việt Nam để tìm hiểu thêm.
Đoạn trích dẫn từ truyện kể của Jules Boissière không hẳn là tài liệu cuối cùng mà B.A.V.H. giới thiệu: còn một tài liệu nữa, một bức thư, cũng gởi cho Salles, ghi năm 1922 tức là 8 năm sau, do đại tá Payard của Bảo tàng Invalides gởi để mô tả thanh kiếm và cái bao kiếm bị mất.
“Thanh kiếm hiện gồm có chuôi kiếm và lưỡi kiếm, không có thêm đồ phụ kiện.
Mô tả: lưỡi kiếm bình thường chỉ có một sống lõm, phía trên có khắc chữ ở một đoạn dài 0,10m. Đốc kiếm bằng ngọc thạch chia thành 7 khoảng ngăn cách nhau bởi các sợi bên bằng vàng. Cái nuốm đốc kiếm bằng vàng chạm (hình con chó). Từ miệng chó nối ra một thanh che tay. Tất cả đều có nạm ngọc trai và trang trí bằng đá quí.
Cái bao kiếm không phải bằng vàng mà là dát vàng, tức là có hai lớp vỏ và có đường viền bằng đá ở cả hai mặt.
Cái móc dây lưng và khâu đeo kiếm bằng lụa và vàng, nạm ngọc trai, dây lưng bằng lụa màu xanh và nạm vàng.
Thanh kiếm đó đại khái là như vậy…
Tất nhiên là tôi không hề biết chút gì về các từ chuyên môn: sống lõm, đốc kiếm, lớp vỏ, đường viền, khâu đeo kiếm không hề gợi cho tôi điều gì… Vậy là tôi phải nghĩ đến việc tìm một cuốn tự điển chuyên môn.
Do có vàng và đá quí, tôi nghĩ là cái bao kiếm chắc hắn đã gợi lòng thèm muốn nhưng dù gì thì cũng không nhiều hơn thanh kiếm, thanh kiếm với đốc kiếm bằng ngọc và vàng chắc cũng đáng giá trên thị trường. Tóm lại, nếu vụ trộm làm nảy sinh một giả thuyết chấp nhận được, thì không lẽ tại nhiều bảo tàng ở Paris, nơi cất giữ những hiện vật có một quan hệ lợi - hại còn lớn hơn, kẻ cắp đã không cần phải có một sự lựa chọn rất sáng suốt.
Nhiều ngày trôi qua, tôi dần bình phục, trước khi tiếp tục điều tra, tôi quyết định lập ra các điều ưu tiên, điều nghiên một dự án tấn công và một chiến lược, để không mù quáng cùng một lúc đi theo nhiều hướng khác nhau. Tức là đưa ra các vấn đề và tìm cách giả quyết các vấn đề đó.
Sau đây là bảng đầu tiên mà tôi làm:
Vấn đề
Tài liệu tra cứu
Nơi tìm hiểu
Thanh kiếm đã đến Bảo tàng Invalides trong trường hợp nào?
- Nhật ký hành quân của các đội quân tham chiến ở Huế
- Thư mục lịch sử về việc đô hộ Trung Kỳ Bắc Kỳ
Thư viện SHAT
 
- AOM
Ai là tác giả của vụ trộm cái bao kiếm năm 1913?
 
Ai là người mà ông Salles đã nghi ngờ?
- Các tác phẩm về lịch sử các phong trào cách mạng tại Đông Dương
- Giấy tờ trao đổi về cuộc điều tra
- Điều tra của cảnh sát
- Báo chí
- Thư viện quốc gia
 
 
- Văn khố của cảnh sát
- Văn khố của Bảo tàng Invalides
Thanh kiếm nay đang ở đâu?
- Liên hệ với các quản thủ của bảo tàng
- Bảo tàng Invalides
Thanh kiếm có đóng một vai trò đặc biệt trong số các kỷ vật của các vua quá cố để lại hay không (các nghi lễ, nơi cất giữ...)?
- Văn khố ở Việt Nam
- Tạp chí của Hội Đô Thành Hiếu Cổ (B.A.V.H.)
- Liên hệ với các nhà sử học Việt Nam
Việc đầu tiên là lục lọi trong thư viện. Cần phải nói là tôi không chuyên về lịch sử Việt Nam. Tôi biết về lịch sử Việt Nam cũng gần bằng những điều tôi biết về lịch sử Pháp, tức là không nhiều. Tôi lập ra một bảng biên niên sơ sài trong đó tôi đưa vào các sự kiện, các triều đại, các nhân vật, từ đó nổi lên những điều mà tôi biết rất rõ và cũng có những điểm đen mà tôi không biết chút gì. Về lịch sử Việt Nam thì còn tệ hơn là biết về lịch sử Pháp nên trước hết tôi cần phải cập nhật kiến thức của mình.
Thất thủ Kinh đô năm 1885
Tôi đã đọc vài tác phẩm lịch sử và dưới ngòi bút của Charles Fourniau trong tác phẩm Annam - Tonkin, 1886 - 1896, nhà nho và nông dân Việt Nam đối diện với cuộc chinh phục thuộc địa, tại trang 35, tôi khám phá ra rằng trực giác của tôi đã không nhầm: thanh kiếm đã được mang đi như một chiến lợi phẩm khi tấn công Kinh Thành Huế nào ngày 5 tháng 7 năm 1885:
“Chính Courcy đã không ngần ngại lấy cây kiếm của vua và gởi tặng cho bộ trưởng Bộ Chiến tranh, tướng Campenon, ông này nhận nó không một chút nhíu mày”
Vậy là tôi đã hiểu trong trường hợp nào thanh kiếm đã rời khỏi Kinh Thành để đến nằm tại Bảo tàng Invalides. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính xác là thanh kiếm đã được mang đi trong lần cướp sạch Huế.
Để cho những ai không biết về các sự kiện này, cần phải lùi lại đến thời điểm đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 tháng 7 năm 1885 và các sự kiện liên quan:
Ngày 1 tháng 7 năm 1885, tướng de Courcy đến Huế, qua cửa Thuận An. Ông được hộ tống bằng một đoàn tùy tùng cả nghìn người. Ông đến tòa Công sứ và báo cho Hội đồng Cơ mật là ông đến để trình các ủy nhiệm thư và mời các quan đến. Đây là một cánh tay thép đưa ra. Các thành viên của Hội đồng Cơ Mật không có lý do gì để ra khỏi thành, điều đó không phù hợp với lễ nghi. Tất nhiên là de Courcy biết điều đó: không phải là Hội đồng Cơ mật phải đến theo lời mời của ông mà đúng ra chính ông phải đến trình diện tại Hoàng cung. Triệu tập Hội đồng này ở bên ngoài, tại Tòa Công sứ, đó hầu như là đòi hỏi một biểu hiện của lòng trung thành. Nhiều vị quan, trong đó có ông Thuyết (Tôn Thất Thuyết - T.Đ.A.S.) là một trong các phụ chính đại thần, cáo bệnh. De Courcy không nhân nhượng, trả lời là ông sẽ đợi đến khi các vị quan lớn này khỏi bệnh. Điều này kéo dài cho đến ngày 4 tháng 7. Đêm đó, ông Thuyết quyết định tập hợp tất cả các lực lượng quân đội và tấn công người Pháp. Ông không còn tin vào sự thương lượng nên đã quyết định tấn công trước khi quá muộn. Đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 các đội quân người Việt Nam đồng loạt tấn công người Pháp cả ở Tòa Công sứ lẫn ở Mang Cá trong Kinh Thành…
Trong nhiều tuần lễ, tôi đã tự đưa ra câu hỏi: vào lúc nào và ở đâu de Courcy đã lấy thanh kiếm? Thanh kiếm đã được để ở đâu, điều này tôi cũng không biết, có thể là trong Kho tàng của Hoàng gia, có thể là ở Thế Miếu, miếu thờ này nằm đối diện với mấy cái đỉnh đồng, nơi có bàn thờ các vua. Một bản vẽ cũ của Kinh Thành cho ta thấy một công trình được ghi là miếu “thờ Gia Long” (tức Thế Tổ Miếu - T.Đ.A.S.) nằm đối diện với Hoàng cung.
Để hiểu điều gì đã xảy ra, tôi đã phải thể hiện lại một cách chính xác nhất các sự kiện xảy ra trong đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5. Các sử gia đã làm công việc này trước tôi, và số người này không phải là ít, nhưng họ làm không phải là do cùng một chủ đích. Vả lại tôi muốn có suy nghĩ riêng của mình, nghe những người đã trực tiếp tham gia kể lại. Vậy nên tôi đã đến Phòng Lịch sử Văn khố của Bộ Binh (SHAT) và ở đó tôi đã tìm được các báo cáo do chính de Courcy gởi về cho các thượng cấp ở Paris, nhật ký hành quân của các đội quân tham chiến, chủ yếu là đội quân lính bộ binh Algérie số 3, và tìm ra được cả những thư từ do ông tham biện người Pháp, là Palasne de Champeaux, gởi. Tôi thống nhất các quan điểm khác nhau, quân sự và dân sự. Sau đó tôi đã đối chiếu với bài vè Thất thủ kinh đô do ông E. Le Bris sưu tập được từ các người hát rong người Việt Nam, và đã đăng trong B.A.V.H. Tôi đã mua của các nhà bán sách cũ - và trên internet - các tác phẩm xuất bản trước năm 1900, tác giả của chúng đều là các chứng nhân trực tiếp hoặc gián tiếp: chuyện kể về đời sống của các lính thủy đánh bộ và lính lê dương, hồi ký của các nhà chức trách dân sự hay quân sự, Dutreil de Reims, Reinhart des Essarts, de Lannessan, Paulin Vial… Tôi đã có tất cả trước mặt, tôi xếp đặt chúng lại, tôi thử tái hiện lại các sự kiện, các hoạt động, cử chỉ…
Trước đó một thời gian, người Pháp đã được triều đình cho phép đóng quân, không chỉ ở chỗ đất của Tòa Công sứ đã được nhượng cho họ ở bên kia sông, mà cả ở bên trong Kinh Thành, ở phần được gọi là Mang Cá. Đối với nhiều người trong triều thì đây là một chuyện không thể chấp nhận được, hơn nữa binh lính người Pháp lại có nhiều thái độ bất kính: người ta thấy lính thủy đánh bộ đi lại như trong các vùng bị chiếm và đùa giỡn bằng cách ném mũ của các quan xuống đất, thậm chí còn thấy các sĩ quan cỡi ngựa vào trong các công trình trước nay cấm người ngoài.
Trong triều có hai phe: phe chủ chiến, thậm chí cho đến chết, chống lại sự hiện diện của người Pháp và phe chủ hòa muốn thương lượng. Phe đầu tiên hiện thân là tướng Thuyết, người đáng ghét nhất đối với người Pháp, người không thể khuất phục. Ở phe thứ hai có nhiều gương mặt: những người thực tế nhận thấy tương quan lực lượng giữa hai bên là quá bất lợi đã phê phán bất cứ hành động quân sự nào, những người cơ hội chủ nghĩa nghĩ đến việc trục lợi từ người Pháp, nhưng cũng có những người sợ hãi không thể phản ứng trước sự tấn công của người Pháp và các nhà chiến lược muốn đợi một cơ hội tốt hơn. Quan phụ chính thứ hai là Nguyễn Văn Tường, ban đầu cũng điên cuồng chống lại người Pháp như ông Thuyết, nhưng là người có suy nghĩ hơn, ít bị xúi dục hơn, thử cứu lấy cái gì mà ông tin còn có thể cứu được, chọn việc mất một ít để không bị mất tất cả. Từ khá lâu, hai người đã đối địch nhau và để chuẩn bị một cuộc tấn công người Pháp, ông Thuyết đã cho xây dựng một cái thành trong rừng để rút lui nếu kinh đô bị mất.
Lo lắng về các ảnh hưởng của cánh tay thép của de Courcy, ông đã quyết định được ăn cả ngã về không, tập hợp tất cả các đội quân có thể sử dụng được, thả tù nhân ra để sung thêm vào số quân này và tấn công đồng thời Mang Cá và Tòa Công sứ. Ông kỳ vọng vào tác dụng của sự bất ngờ để bù lại việc quân đội của mình không được trang bị tốt. Mặc dù có sự bất đồng nội bộ nhưng ông cũng có thể tin tưởng, ít ra là trong thời gian đầu, vào sự giúp sức của quân đội và phần lớn các quan văn.
Bên phía Pháp cũng chia rẽ. Có người thì muốn chấm dứt sự hiện diện của vương quốc và triều đình, thậm chí là nếu cần đến biện pháp mạnh, và thiết lập một chính quyền trực tiếp, làm cho Annam trở thành một thuộc địa như Nam Kỳ; và có người thì muốn giữ lại chính quyền của vua với sự bảo hộ của người Pháp. Những người theo chính kiến trước chủ yếu tập trung trong các quân nhân và các nhà truyền giáo, trong đó có de Courcy là một điển hình với chính sách triệt để nhất của ông. Những người theo chính kiến thứ hai chủ yếu là bên dân sự, các người làm việc hành chính, các tham biện nghiêng về giải pháp giữ lại thể chế vua gồm chủ yếu các đặc quyền của vua và và sự quản lý hành chính đất nước dưới sự giám hộ của nước Pháp. Đó là chính sách của Lemaire, đại diện của nước Pháp tại Huế và cũng là chính sách của Paris, sợ rằng một chính quyền trực tiếp sẽ làm hại đến các ngân khoản của quốc gia chưa thể hồi phục lại được sau chiến tranh 1870 và cuộc chinh phục Mexico. Các bất đồng này đã làm cho Lemaire là tham biện tại Huế phải từ chức. Ông Palasne Champeaux vừa mới đến thay thế ngay trước khi de Courcy tới.
Đó là tình hình vào ngày hôm trước của cái mà ở Pháp người ta gọi là “cuộc mai phục tại Huế”. Cuộc tấn công Mang cá và Tòa Công sứ xảy ra vào ban đêm, làm cho binh lính bị bất ngờ trong khi đang ngủ, tên lửa của người Việt Nam làm cháy mái tranh của các trại lính.
Tác dụng của sự bất ngờ qua đi, các đội quân Pháp không chút khó khăn chiếm lĩnh lại được vị trí của họ trong Kinh Thành và ở Tòa Công sứ. Sau đó chỉ cần vài giờ là họ làm chủ được tình hình và chiếm lấy kinh thành, cướp bóc cung điện. Tôi đã đọc lại kỹ càng các nhật ký hành quân, các thư từ trao đổi của de Courcy, các sử liệu của người Việt Nam và cả các mô tả những địa điểm mà tôi đã tìm thấy trong tạp chí.
Ở đây tôi lại cũng phải làm quen với các từ vựng mới, từ vựng về kiến trúc thành luỹ: cửa ngầm ở công sự, phòng lộ, thành giai, công sự ngoài, công sự lẻ, pháo đài… Tất cả các điều ấy để theo dõi sự chuyển quân trong đêm đó. Tôi hy vọng biết được, nhờ một chứng nhân không bác bỏ được, ở đâu, khi nào và như thế nào thanh kiếm đã đổi chủ. Trước hết, nếu tôi không nhầm, thì Mang Cá chỉ có lối thông ra bên ngoài, vào thời đó không có lối thông trực tiếp vào trong Kinh thành, nếu không thì cũng phải băng qua một cây cầu bắc qua hào. Vậy thì các đội quân đóng ở trong Mang Cá phải đi ra, đi dọc theo thành, để đi vào thành bằng một trong các cửa bên trên có vọng lâu. De Courcy không thể cầm đầu các đội quân này vì ông đang ở tại toà Công sứ, bên kia sông, và chắc là mãi đến sáng hôm sau ông mới vào Hoàng Thành. Trái lại, một đoạn trong bài vè Thất thủ kinh đô làm tôi chú ý, đoạn nói đến chuyện vua Hàm Nghi cuống cuồng chạy trốn:… Ngài, khóc ròng khóc rả, ra lệnh mang theo kiếm vàng và ấn vua
Kiếm vàng và ấn vua: chỉ có thể là thanh kiếm của vua Gia Long. Sự kiện nó được gắn với cái ấn làm tôi tin chắc rằng nó có một nhiệm vụ biểu tượng quan trọng và rằng nó đóng một vai trò trong lễ đăng quang của các vua…
Nhưng nếu tác giả của bài vè đúng thì de Courcy không thể lấy thanh kiếm trong vụ cướp sạch Kinh Thành. Trong trường hợp này thì ông sẽ chỉ có nó khi bắt được vua Hàm Nghi, tức vài tháng sau đó.
Điều làm tôi chú ý, đó là rất nhiều lần, trong những ngày sau cuộc cướp bóc, ông nhắc đi nhắc lại rằng “phần lớn kho tàng đã lọt vào tay chúng ta và các đồ mỹ nghệ đã được để lại tại chỗ để trao lại cho vua mới của Annam”. Ông có thể đã nói dối, chắc vậy, và không muốn nói đến các cuộc cướp bóc và vòi tiền của lính bộ binh Algérie, những điều này đã do các chứng nhân khác tố cáo và chính de Courcy cũng ám chỉ đến khi về sau ông này đòi là phải trả lại những đồ vật đã bị ăn trộm trong cuộc tấn công vào ngày mồng 5.
Nếu bài vè nói đúng và nếu de Courcy đã lấy thanh kiếm từ vua Hàm Nghi thì dù sao cũng là sau khi vua Đồng Khánh đã lên ngôi. Vua Hàm Nghi chạy trốn mang theo các biểu tượng của vương quyền, của sự chính thống của mình, làm cho vị vua do người Pháp đặt lên tại Huế trở nên không chính danh[1]. Vì lý do gì mà de Courcy không trả lại thanh kiếm cho triều đình Huế? Do tính toán thế nào đó, ông chọn việc chuyển nó cho ông bộ trưởng đỡ đầu như một chiến lợi phẩm. Có phải là một cách để tỏ ra rằng từ nay về sau vương quyền không còn có thể hợp pháp hóa, kêu gọi sự trung thành đối với tổ tiên sáng lập và chấm dứt quyền lực của vua Annam vì từ nay về sau các công sứ người Pháp sẽ kiểm soát vương quốc? Hay là do ông không có ý niệm về tầm quan trọng của cái biểu tượng này của triều đình?
Điều này giải thích rằng việc thiếu thanh kiếm đã khiến cho vua Đồng Khánh rất lo lắng, nếu ta tin một tư liệu khác trong số các tư liệu của ông Salles giữ, nói về chuyện kể của ông nhà văn - nhà báo Jules Boissière, khi ông này đến thăm Huế vào mùa xuân năm 1888, tức là sau các sự kiện trên:
“Vua nói một cách kín đáo về hai vật quí, đã bị mất khi Huế bị cướp sạch: thanh kiếm của vua Gia Long, người sáng lập triều đại và một chuỗi kim cương được làm từ đời Gia Long khoảng 1802 đến đời Tự Đức khoảng 1880 mới xong. Vua sẽ mỉm cười khi nhắm mắt nếu có thể mua lại và hoàn trả lại cho kho tàng hai thứ đồ châu báu có tính lịch sử và biểu tượng này mà nếu bảo tồn được chúng thì vua sẽ được phước và bảo tồn được nòi giống…”
Báu vật lịch sử tạo phúc và bảo tồn nòi giống: đây không phải đơn giản là đồ dùng thuộc về ông vua ta đang nói tới mà trong tâm trí của vua Đồng Khánh đây là các biểu chương vương quyền dùng trong lễ đăng quang, và đồ vật theo lễ nghi mang quyền lực của vua và chủ yếu là thiên mệnh của vua. Quan trọng tới nỗi vua đã yêu cầu mua lại…
Về cái chuỗi hạt bằng kim cương mà việc chế tạo kéo dài tới 80 năm thì không hề bao giờ nghe nói tới.
Vậy là trong một vài tháng, tôi đã trả lời được một phần lớn các câu hỏi đầu tiên. Còn thiếu các thông tin về vai trò chính xác của cái vũ khí này, về nơi mà nó đã từng được cất giữ, về các nghi lễ mà nó có thể đã tham dự… các nhà nghiên cứu Việt Nam, những người quen thuộc với văn khố triều Nguyễn chắc chắn sẽ có thể cung cấp những ghi chú quí giá về các vấn đề này.
(Còn nữa...)


[1] Nguyên bản tiếng Pháp ghi là: “qui faisaient défaut au nouveau roi installé à Hué par les Français”. Chúng tôi tạm dịch là “không chính danh” cho sát hợp với tình thế đường thời - T.Đ.A.S.