THƠ VĂN CHỮ HÁN VỊNH CẢNH SẮC
THUẬN - QUẢNG TRÊN ĐỒ SỨ KÝ KIỂU THỜI NGUYỄN
Trần Đức Anh Sơn 

Bài 4: Tựa là 三 台 聽 潮 (Tam Thai thính triều), 8 câu, 56 chữ, do chúa Nguyễn Phúc Chu sáng tác, viết trên chiếc bát to hiệu đề 清 玩theo lối chữ triện, do chúa ký kiểu. Cuối bài thơ cũng có dòng lạc khoản ba chữ: 道 人 書(Đạo nhân thư). Bên cạnh bài thơ là hình vẽ cảnh núi Tam Thai (Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng) (Các ảnh 4a và 4b). 

Tam Thai còn có tên Thủy Sơn, là một trong năm hòn núi thuộc Ngũ Hành Sơn ở trấn Quảng Nam xưa (nay thuộc Đà Nẵng), dân địa phương thường gọi là núi Non Nước. Sách Đại Nam nhất thống chí, khi viết về Ngũ Hành Sơn, có đề cập đến một ngôi chùa có tên Tam Thai, cảnh sắc rất tráng lệ. Chùa này hiện vẫn tồn tại ở lưng chừng núi và được trùng hưng, trở thành một thắng địa của Ngũ Hành Sơn, thu hút đông đảo Phật tử và du khách thập phương đến hành hương, ngoạn cảnh.
TS. Jochen May ở CHLB Đức cũng sưu tập được chiếc bát to có cùng bài thơ, hình vẽ, tuổi men tương tự với chiếc của ông Trần Đình Sơn nhưng có hiệu đề là閒 心 樂 事(Nhàn tâm lạc sự) viết theo lối chữ triện. Ngoài ra, có nhiều nhà sưu tập ở Huế cũng sưu tầm được những chiếc bát to hiệu đề 日 (Nhật), cũng viết bài thơ 三 台 聽 潮 (Tam Thai thính triều) và hình vẽ tương tự, nhưng đó là những món SKK của triều Minh Mạng (1820 - 1841) đặt làm.
Bài 5: Bốn câu thơ gồm 28 chữ, trích từ bài thơ 雲 山 勝 蹟(Vân sơn thắng tích) của vua Thiệu Trị, viết trên đĩa của bộ uống trà, đáy có ghi dòng lạc khoản: 昌 溪 杜 澄 甫 奉 製 (Xương Khê Đỗ Trừng Phủ phụng chế), vẽ cảnh chùa Thánh Duyên trên núi Thúy Vân, cạnh cửa bể Tư Dung, bên cạnh hình trang trí có 3 chữ Hán: 翠 雲 山 (Thúy Vân sơn) (Ảnh 5a). 
 
Nguyên văn:
惠 風 鍾 度 幽 林 嚮
空 宇 香 羅 法 海 津
樹 戀 慈 曇 浮 璧 樂
徑 穿 僧 屐 雜 紅 塵
 
 
Phiên âm:
 
Huệ phong chung độ u lâm hưởng
 
Không vũ hương la pháp hải tân
 
Thụ luyến từ đàm phù bích lạc
 
Kính xuyên tăng kịch tạp hồng trần
 
 
Dịch thơ:
 
Chuông ngân cậy gió thêm linh nghiệm
 
Hương tỏa nương mây thật nhiệm mầu
 
Quẩn quanh trời rộng ngàn mây phủ
 
Vương vấn hồng trần tiếng guốc xao
 
雲 山 勝 蹟 (Vân sơn thắng tích) là một trong 20 bài thơ do vua Thiệu Trị sáng tác để ca ngợi 20 thắng cảnh đất thần kinh (Thần kinh nhị thập cảnh thi vịnh).
Bài 6: Bốn câu thơ gồm 28 chữ, viết trên đĩa trà hiệu đề 若 深 珍 藏 (Nhược thâm trân tàng) do nhà nghiên cứu Trịnh Bách (ở Hoa Kỳ) sưu tầm được (Ảnh 6a và 6b). Chiếc đĩa trà này trang trí giống hệt hình vẽ trên chiếc dĩa trà vẽ cảnh Thánh Duyên trên núi Thúy Vân có kèm bốn câu thơ trích trong bài ngự chế 雲 山 勝 蹟của vua Thiệu Trị mà ông Trần Đình Sơn đang lưu giữ. 
 
 
Nguyên văn:
海 浪 如 雲 去 却 回
北 風 吹 起 数 聲 雷
朱 樓 四 面 鉤 疏 箔
卧 看 千 山 急 雨 來
 
Phiên âm:
 
Hải lãng như vân khứ khước hồi
 
Bắc phong xuy khởi sổ thanh lôi
 
Chu lâu tứ diện câu sơ bạc
 
Ngọa khán thiên sơn cấp vũ hồi
 
Dịch thơ:
 
Sóng xao mây cuốn hẹn quay lui
 
Gió bắc, sấm reo giật tiếp hồi 
 
Bốn mặt lầu son rèm thưa phủ
 
Nằm xem muôn núi ngập mưa chơi
 
Bài 7: Hai câu thơ gồm 10 chữ, viết trên những chiếc đĩa trà ký kiểu khoảng triều Tự Đức, đều có hiệu đề 蘊 藏 美 記 (Uẩn tàng mỹ ký), cũng vẽ cảnh chùa Thánh Duyên trên núi Thúy Vân. Những chiếc dĩa trà này hiện có trong sưu tập của các ông: Trần Đình Sơn ở TPHCM (Ảnh 07a); Đoàn Phước Thuận ở Phú Yên (Ảnh 07b) và Thomas Ulbrich ở Hàn Quốc (Ảnh 07c).

Nguyên văn:

雲 翠 高 賢 臥
山 峰 塔 影 搖

Phiên âm:

Vân thúy cao hiền ngọa

Sơn phong tháp ảnh diêu

Dịch thơ:

Cao hiền nằm gối ngang mây

Non xanh bóng tháp ngất ngây bên trời