Điểm lại những quy định pháp luật ở nước ta về di sản văn hóa, chúng tôi cho rằng, về cơ bản chúng ta đã có những chế định pháp luật khá đầy đủ về quản lý cổ vật. Tuy nhiên, từ sau khi Luật Di sản Văn hóa có hiệu lực cho đến nay, việc quản lý loại di sản văn hóa vật thể đặc biệt này vẫn còn không ít bất cập và tồn tại. Đó là:
Hiện nay, với sự cho phép của Luật Di sản văn hoá 2001, thị trường cổ vật được công khai hoạt động .Tuy nhiên, vốn đã xuất hiện và tồn tại dai dẳng trong nhiều thập kỷ với tư cách là thị trường bất hợp pháp, nay do có được “chỗ dựa pháp lý” bởi sự thừa nhận về quyền sở hữu về cổ vật và tính hợp pháp của việc mua bán, trao đổi, thị trường cổ vật ở Việt Nam đã và đang phát triển sôi động, cả về bề nổi lẫn bề chìm.
Cổ vật được chính thức nhìn nhận dưới góc độ một loại tài sản, loại hàng hoá đặc biệt không chỉ có giá trị về lịch sử, văn hoá, khoa học mà còn là những tài sản có giá trị kinh tế lớn, có khả năng đem lại lợi nhuận khổng lồ trong quá trình mua bán, trao đổi. Việc mua bán các tài sản văn hoá có nguồn gốc bất hợp pháp vừa nhiều về số lượng vừa đa dạng về chủng loại, trong đó có cả những đồ “quốc cấm” như trống đồng, thạp đồng,các cổ vật có giá trị lớn như vàng, đồ trang sức, thủy tinh màu ở các di tích khảo cổ đã hoặc chưa được khai quật thuộc các văn hóa khảo cổ Sa Huỳnh, Chăm Pa, Óc Eo, các đồ gốm, sứ lấy lên từ các con tàu đắm đã và đang được khai quật
Do đó, cần xem xét việc quản lý thị trường cổ vật cả dưới góc độ kinh tế, và an ninh quốc gia chứ không chỉ dưới góc độ văn hóa. Đồng thời, tuân thủ những quy luật kinh tế.
Đối tượng sưu tầm, lưu giữ, trao đổi, mua bán của thị trường cổ vật là hết sức phong phú, đa dạng và càng ngày càng được mở rộng.Từ gốm sứ, các cổ vật kim loại, chủ yếu là đồ đồng, trong đó có không ít di vật đào lên từ các di chỉ, lấy được từ các mộ tàng cổ, đến các loại cổ vật là trang phục, lễ phục, sách vở cổ, sắc phong, tranh thờ, các tác phẩm hội họa… đối tượng mua bán, trao đổi trên thị trường còn là nông cụ, các vật dụng sinh hoạt từ vài chục năm trở về trước.
Những năm qua, người ta còn công khai trao đổi, mua bán những cổ vật vốn là những động sản tại các di tích như sắc phong, tượng , lư hương, đỉnh đồng, vũ khí thờ như cung, kiếm, áo thành hoàng…Thậm chí, các chi tiết kiến trúc tưởng không thể tách rời di tích, là một phần khăng khít của di tích như bức phù điêu nổi, các mảng trang trí kiến trúc trên các đầu dư, bức cốn, kẻ chuyền, các linh vật gắn trên mái và nóc đình chùa… cũng trở thành mặt hàng đắt giá.
Tình trạng nói trên cho thấy nếu tiếp tục buông lỏng quản lý, thiếu kiểm soát chặt chẽ, vô hình trung chúng ta đang dần biến thị trường cổ vật mặc nhiên thành một “chợ trời”, thành nơi tiêu thụ các tài sản có được do trộm cắp của đình, chùa, đền, miếu… hoặc đào bới trái phép các di chỉ khảo cổ học, qua đó làm tăng thêm nguy cơ chảy máu cổ vật và xuống cấp nghiêm trọng hệ thống di tích.
Những năm qua, ngoài các nhà sưu tập có thâm niên hoạt động từ nhiều năm trước, đã xuất hiện không ít các nhà sưu tập mới gia nhập đội ngũ người chơi cổ ngoạn ở Việt Nam. Phần lớn họ là những doanh nhân hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau như xây dựng, giao thông nhưng cũng có những người trước đây đã làm trong lĩnh vực nghiên cứu về khoa học xã hội hoặc di sản văn hóa đã và đang có những hiểu biết và kinh nghiệm nhất định về di sản văn hóa nói chung và cổ vật nói riêng.Trong số này, có rất ít người xây dựng bảo tàng tư nhân trên cơ sở các sưu tập của mình . Nhiều người chưa muốn hoặc không muốn trở thành chủ sở hữu các bảo tàng tư nhân vì những ràng buộc có phần còn chặt chẽ của những quy định pháp luật hiện hành
Việc ra đời của các Hội cổ vật tại các địa phương như Hà Nội, Nam Định, Thanh Hóa, Huế, Hải Phòng, Bắc Ninh....sự công khai danh tính và các bộ sưu tập của các nhà sưu tập tư nhân tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Nam Định, Thanh Hóa, Hải Phòng …đã góp phần làm phong phú các hoạt động ;liên quan đến cổ vật ở hầu khắp các trung tâm đô thị lớn. Sự sôi động này góp phần làm minh bạch hóa, công khai hóa một phần/ dù là nhỏ bé/ các hoạt động mua bán, trao đổi cổ vật. Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là những hoạt động mang tính tự phát
Thị trường cổ vật hiện nay ở nước ta còn khá lộn xộn bởi tình trạng xuất hiện ngày càng nhiều các đồ giả cổ, đồ nhái được sản xuất ở trong nước (Bát Tràng, Hà Nội, Nam Định, Huế, Đà Nẵng…) và nhập về từ nước ngoài (Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc…). “…Bên cạnh việc tranh thủ khai thác kỹ năng tinh xảo của các nghệ nhân trong việc làm đồ nhái cổ “trông như thật”, giới buôn bán cổ vật còn tìm mọi cách để trà trộn cổ vật với đồ mỹ nghệ, “đánh đồng” đồ cổ với đồ giả cổ.Dạng thứ nhất là đồ cổ được làm mới nhằm đánh lừa cơ quan kiểm tra nhà nước bằng cách đánh bóng, làm vệ sinh sạch sẽ, vá víu những chỗ bể. Dạng thứ hai là đồ mới giả làm đồ cổ để đánh lừa khách hàng thông qua mánh khoé: ngâm xác trà cho đồ gốm, ngâm a xit cho đồ đồng, bôi hắc ín, đất cát cho đồ đá, ngâm nước, bỏ vào tổ mối, phơi nắng mưa hàng tháng trời cho đồ gỗ… Công phu hơn, họ còn lấy mẫu trong catalogue rồi mang sang tận Trung Quốc, Thái Lan đặt hàng, khi làm xong lấy bản vẽ mang về, hàng chỉ chọn một đến hai cái đẹp nhất, huỷ bỏ tất cả những cái còn lại, tạo thành vật độc nhất vô nhị, kích thích mốt sưu tầm những món độc bản của các nhà sưu tập….”
Mặc dù các cơ quan hữu quan như Bộ Văn hoá - Thông tin (trước đây) và Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch (hiện nay) đã cùng với Bộ Thương mại (trước đây), Bộ Công Thương (hiện nay), Bộ Công an. Bộ Tài chính ( Tổng cục Hải quan) họp bàn các phương án chống làm đồ giả cổ nhằm hạn chế sự nhầm lẫn khi giám định tại cửa khẩu, tạo thông thoáng cho khách xuất nhập cảnh, tăng cường ngăn chặn xuất lậu đồ cổ…nhưng hiệu quả thực tế còn rất khiêm tốn. Nhà nước vẫn thất thu thuế từ các hoạt động mua bán cổ vật, đồng thời quyền lợi hợp pháp của các nhà sưu tầm chân chính cũng không được đảm bảo
Thực hiện những quy định :“ Nhà nước khuyến khích chủ sở hữu tổ chức trưng bày, giới thiệu rộng rãi sưu tập, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu của mình.( Điều 53 Luật DSVH. Những năm qua, đã có một số nhà sưu tập tổ chức trưng bày các bộ sưu tập tư nhân tại các bảo tàng Nhà nước và thậm chí tặng cho các bảo tàng nhà nước một số sưu tập cổ vật tư nhân.
Bên cạnh đó, một số bảo tàng cũng đã và đang xây dựng và thực hiện chương trình nghiên cứu mua bổ sung các hiện vật, cổ vật và tác phẩm để làm phong phú cho các sưu tập đã có.
Tuy nhiên, việc định giá mua bán vẫn gặp không ít trở ngại do chưa có những giá trị thực về cổ vật, tác phẩm để làm căn cứ mà chỉ đơn thuần là sự thỏa thuận giữa hai bên: bảo tàng nhà nước và chủ hiện vật. Giá thỏa thuận phụ thuộc vào người bán, tùythuộc vào thị trường của từng vùng, từng khu vực và vào giá trị hiện vật (giá trị độc bản, giá trị quý hiếm…). Đồng thời, việc giám định về giá trị khoa học, giá trị kinh tế chưa thực hiện được do thiếu chuyên gia và thiếu thiết bị công nghệ hiện đại Mặt khác, việc mua cổ vật /và tác phẩm nghệ thuật/ cho các bảo tàng lại phải tuân thủ những quy định về việc mua sắm tài sản công hiện nay- rất nhiêu khê, phức tạp và hình thức nên không ít giao dịch đã buộc phải hủy bỏ
Vấn đề Giám định cổ vật: Hiện nay giá trị các cổ vật hầu hết được nhữngngười sưu tầm đánh giá chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và cảm tính chứ chưa có Hội đồng Giám định giá trị cổ vật. Mặt khác, việc giám định cổ vật theo hình thức tự nguyện chỉ được thực hiện khi người sở hữu cổ vật có nhu cầu. Chính vì vậy, Thông tư số 22, ngày 30-12-2011 của Bộ trưởng BộVHTT&DL quy định về Điều kiện thành lập và hoạt động của Cơ sở giám định cổ vật được đánh giá là rất cần thiết. Theo đó, cơ sở giám định cổ vật được pháp luật công nhận sẽ chịu trách nhiệm về chất lượng giám định. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau, nhìn chung hoạt động tổ chức giám định cổ vật/ và nhiều loại di vật, bảo vật quốc gia khác/ cũng còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là do số lượng các chuyên gia giám định là rất ít so với nhu cầu cổ vật các loại cần được giám định hiện nay. Hy vọng rằng, Công ty TNHH Dấu Xưa, tổ chức đầu tiên về giám định cổ vật ở Việt Nam đã, đang và sẽ đi tiên phong trong lĩnh vực hoạt động này, đáp ứng những nhu cầu không nhỏ của xã hội Việt Nam hiện nay.
Về cơ bản, việc đăng ký cổvật theo những quy định pháp luật đã và đang là việc làm bất khả thi ở nước ta. Mặc dù khoản 2, Điều 42 quy định việc Nhà nước khuyến khích việc đăng ký cổ vật nhưng do số lượng cổ vật quá nhiều, lại chưa được giám định, kiểm kê khoa học ở các sưu tập tư nhân và thâm chí ở các bảo tàng công lập nên việc đăng ký, dù là đăng ký thí điểm, dường như vẫn chưa được thực hiện.
Việc thực hiện những quy định tại Điều 41, Luật Di sản văn hóa về việc giao nộp, bàn giao cổ vật cho bảo tàng khi phát hiện cổ vật và sau khi khai quật khảo cổ học là chưa được tôn trọng ở nhiều tỉnh, thành phố. Điển hình nhất là công trường khai quật khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long vẫn chưa bàn giao số di vật, cổ vật khai quật từ 10 năm qua cho UBND TP Hà Nội.
Trong thời gian qua, có không ít vụ việc phát hiện được cổ vật nhưng không thông báo, giao nộp cho bảo tàng nghiên cứu mà tự cho quyền được quản lý những di vật này, ví dụ như Nhà chùa ở chùa Phật Tích (Tiên Du), Bắc Ninh đã tự ý giữ lại các hiện vật có niên đại thời Lý còn nguyên vẹn, có giá trị đặc biệt để “ xây dựng nhà trưng bày” riêng.
Một số kiến nghị nhằm tăng cường công tác quản lý cổ vật ở Việt Nam hiện nay
Nhìn chung, trong những năm gần đây, hoạt., động quản lý Nhà nước về cổ vật đã có những đổi mới và thu được những kết quả đáng khích lệ . Đặc biệt là việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật- đã cơ bản tạo ra hành lang pháp lí cho việc quản lí cổ vật. (Chúng tôi cho rằng, với những quy định khá cụ thể tại Nghị định số 98 và một số thông tư mới ban hành, những quy định pháp lý về quản lý cổ vật đã khá nhiều và khá đủ so với trước đây, cụ thể là:
- Vấn đề Đăng ký di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được quy định tại Điều 19
- Vấn đề Quản lý hoạt động mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được quy định tại Điều 24
- Vấn đề Tổ chức và hoạt động của cửa hàng mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được quy định tại Điều 25
- Nội dung Điều kiện, thẩm quyền và thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được quy định tại Điều 26
- Vấn đề Tổ chức bán đấu giá di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được quy định tại Điều 27
Tuy nhiên, về cơ bản, mặc dù đã có khá nhiều những quy định pháp luật về quản lý cổ vật nhưng trong thực tế, những quy đinh pháp luật này chưa được đi vào cuộc sống, chưa được các cơ quan bảo tàng công lập, nhà sưu tập tư nhân thực hiện . Nhìn chung, việc Giám định cổ vật, tổ chức đăng ký cổ vật vẫn không được hưởng ứng vì chưa có những giải pháp khuyến khích phù hợp, khả thi. Cũng chính vì thế mà công tác quản lý Nhà nước về cổ vật chưa đem lại những hiệu quả mong muốn.
Cần có những giải pháp nhằm điều tiết thị trường cổ vật theo hướng hợp pháp,công khai, minh bạch để khắc phục những tồn tại cơ bản đã nêu trên. Cụ thể là:
+ Xây dựng và ban hành mức phí giám định cổ vật đi kèm với trách nhiệm giám định nhằm khuyến khích các tổ chức , cá nhân tham gia giám định và đăng ký cổ vật
+ Khẩn trương xây dựng cơ chế đặc thù cho việc mua bán, trao đổi hiện vật, tác phẩm nghệ thuật…; quy trình thẩm định giá tiến tới thành lập trung tâm đấu giá cổ vật, tạo điều kiện cho các bảo tàng mua được những hiện vật, tác phẩm có giá trị
+ Hoàn thiện các chế định về bảo tàng tư nhân;
+ Xây dựng thí điểm cửa hàng mua bán cổ vật , tổ chức đấu giá cổ vật tại một số trung tâm đô thị .
Đẩy mạnh hơn nữa công tác bảo vệ tại các khu di tích khảo cổ, ngăn chặn có hiêu quả việc đào bới trái phép nhằm tìm kiếm trái phép cổ vật tại các di chỉ khảo cổ , tăng cường quản lí cổ vật tại các di tích kiến trúc nghệ thuật.
Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lí Nhà nước về công tác văn hóa nói chung, về di sản văn hóa trong đó có cổ vật nói riêng với các yêu cầu về trình độ chuyên môn. Tổ chức các lớp tập huấn, ngắn hạn hay dài hạn bồi dưỡng kiến thức cổ vật cho các cán bộ ngành văn hóa và các ngành liên quan như Hải quan, An ninh
Tăng cường phối hợp với các Hội Cổ vật tại các tỉnh thành phố. Trong tình hình hiện nay, phải coi các Hội Cổ vật là chỗ dựa tư vấn về chuyên môn của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong các hoạt động quản lý Nhà nước về cổ vật, đặc biệt là giám định, đăng ký, mua bán cổ vật
Tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao ý thức cộng đồng; chú trọng các hoạt động tuyên truyền tại dưới nhiều hình thức như truyền hình, phát thanh, tọa đàm, hội thảo.
Trên đây là một số ý kiến bước đầu của chúng tôi về tình hình quản lý cổ vật ở nước ta hiện nay. Chúng tôi hy vọng và tin tưởng rằng, trong tương lai, việc đổi mới công tác quản lý các di sản văn hóa đặc biệt này sẽ được thực hiện, thiết thực hóp phần vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa chung của quốc gia dân tộc./.
TQB. ĐT: 0913524945. Email: truongquocbinh2017@gmail.com